Mỗi ngày một lời Bác Hồ dạy
NHỮNG LỜI BÌNH CÂU NÓI, BÀI VIẾT, LỜI DẠY CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
(Kèm theo Công văn số 108/CT-CTr ngày 27/03/2018)
1. Ngày 1-1: “Năm mới ra sức thi đua ái quốc để thu nhiều thắng lợi hơn năm cũ”[1].
Là lời thư chúc năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 1 tháng 1 năm 1952, đăng trên Báo Nhân dân ngày 03-1-1952, trong bối cảnh nhân dân cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trải qua gần 7 năm tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng dân tộc: “Nhân dịp Nguyên đán dương lịch 1952, tôi gửi lời thân ái chúc: Toàn thể đồng bào và kiều bào, Toàn thể chiến sĩ, Các anh chị em cán bộ, Các cụ phụ lão, các vị thân sĩ, Các cháu thanh niên, nhi đồng. Năm mới ra sức thi đua ái quốc để thu nhiều thắng lợi hơn năm cũ”.
Lời Bác trong thư đầu năm mới thể hiện tấm lòng thương nhớ da diết và trân trọng của Người đối với đồng bào, chiến sĩ cả nước, kiều bào ta đang sinh sống ở nước ngoài và khích lệ, khơi dậy, động viên, thôi thúc “con dân nước Việt” nêu cao truyền thống yêu nước, cống hiến sức mình cho thắng lợi sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc.
Đầu năm 1952, ngay khi đăng tải trên báo, lời chúc đầu năm mới của Người đã được các tầng lớp nhân dân, kiều bào, cán bộ chiến sĩ quân đội đón nhận, chuyển hóa thành khẩu hiệu “hành động cách mạng” trên khắp tiền tuyến, hậu phương trong cả nước; cán bộ, chiến sĩ quân đội dấy lên phong trào thi đua học tập, huấn luyện, đánh đuổi giặc ngoại xâm giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân cả nước, trên dưới đồng lòng, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta chuyển sang một giai đoạn mới – giai đoạn phản công chiến lược, tạo ra thế phát triển tiến công trên diện rộng, làm tiền đề đẩy nhanh thực hiện chiến cục Đông Xuân 1953 – 1954, mau chóng kết thúc chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược.
Vang vọng lời Bác năm xưa, mỗi dịp vui xuân, đón tết Nguyên đán của dân tộc, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gửi lời chúc năm mới tới toàn thể đồng bào, chiến sĩ cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài, phát huy trí tuệ, bản lĩnh, truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất của dân tộc, nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn thách thức, đoàn kết thi đua yêu nước, giành thắng lợi mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vẻ vang, sánh vai cùng bè bạn năm châu.
Trong những giờ phút thiêng liêng chuyển sang năm mới, tự hào vững bước dưới Quân kỳ “Quyết chiến, quyết thắng”, cán bộ, chiến sĩ Quân đội khắc sâu lời chúc năm mới của Bác; tin tưởng tuyệt đối vào vai trò lãnh đạo của Đảng, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tay súng, giữ vững biên cương, chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ cuộc sống ấn no hạnh phúc của nhân dân.
2. Ngày 2-1: “Có anh hùng là vì có tập thể anh hùng. Có tập thể anh hùng là vì có nhân dân anh hùng, dân tộc anh hùng, Đảng anh hùng”[2]
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài Phát biểu tại buổi tiếp đại biểu các đơn vị anh hùng và chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước ngày 2-1-1967: “…Có anh hùng là vì có tập thể anh hùng. Có tập thể anh hùng là vì có nhân dân anh hùng, dân tộc anh hùng, Đảng anh hùng”, đăng trên Báo Nhân dân, số 4660, ngày 10-1-1967, trong bối cảnh nhân dân trên hai miền Nam, Bắc phát huy tinh thần yêu nước, không sợ hy sinh, gian khổ, đang gắng sức thi đua xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Trong lời phát biểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi nhận, tôn vinh những cá nhân, tập thể đã cống hiến, hy sinh xương máu vì sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong suốt mấy chục năm; động viên, huấn thị mọi người, mọi tập thể hãy cố gắng hơn nữa, thi đua sản xuất, công tác và chiến đấu, lập nhiều thành tích to lớn, góp phần cùng toàn dân đánh thắng giặc Mỹ xâm lược bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước.
Lời phát biểu năm ấy của Hồ Chí Minh đã lan tỏa tới quốc dân đồng bào, thâm nhập sâu vào quân đội, trở thành động lực thúc đẩy mọi cán bộ, chiến sĩ hăng hái thi đua học tập, công tác, huấn luyện, chiến đấu, lập nên nhiều chiến công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Đến hôm nay, lời phát biểu năm xưa của Người vẫn tỏa hào khí mạnh liệt, đang được mọi cán bộ, chiến sĩ toàn quân khắc ghi, đoàn kết thi đua, nỗ lực thực hiện thắng lợi Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; xây dựng và nhân rộng nhiều tập thể, cá nhân Anh hùng lao động, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ đổi mới và tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến; quan tâm tạo điều kiện để các tập thể, cá nhân anh hùng, điển hình tiên tiến tiếp tục phát huy thành tích cao hơn nữa; phát động, khuyến khích, cổ vũ động viên cán bộ, chiến sĩ toàn quân tích cực học tập, làm theo, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Tháng 1: “Đại bác của bọn đế quốc không thể át tiếng nói yêu nước của nhân dân Việt Nam”[3]
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay, viết vào tháng 1-1959, trong bối cảnh đất nước Việt Nam bị đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai dùng bom đạn để đàn áp, giết hại nhân dân Việt Nam, Người chỉ rõ: Bọn vua quan và phong kiến đê tiện và hèn nhát đầu hàng và câu kết với bọn đế quốc để tiếp tục nô dịch nhân dân Việt Nam nhiều hơn, khiến nhân dân Việt Nam khổ cực không kể xiết. Nhưng đại bác của bọn đế quốc không thể át tiếng nói yêu nước của nhân dân ViệtNam. Trong suốt gần một thế kỷ thống trị của thực dân Pháp, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã, người sau đứng dậy”.
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một sự khẳng định truyền thống yêu nước của dân tộc, ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác – Lênin, Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 là cơ sở để Đảng ta hoạch định đúng đắn đường lối, chủ trương cách mạng – nhân tố quyết định đến những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Lời của Người đầu năm 1959 đã khích lệ, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy truyền thống yêu nước, vượt qua khó khăn, thử thách, đoàn kết đồng khởi, quyết tâm đấu tranh diệt ác, trừ gian, phá thế kìm kẹp, giành chính quyền, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công mạnh mẽ, hình thành một cao trào cách mạng đồng khởi vũ trang của quần chúng rộng khắp, tạo tiền đề đẩy nhanh thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực, trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; song lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm ấy đến hôm nay vẫn đang lan tỏa sức mạnh, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phát huy truyền thống yêu nước, kiên quyết, kiên trì, sáng tạo đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại công cuộc đổi mới đất nước của các thế lực phản động, thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Quân đội nhân dân Việt Nam, lực lượng nòng cốt cùng toàn dân thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, luôn ghi sâu lời Bác, kiên định với mục tiêu lý tưởng của Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân,, gắn bó máu thịt với nhân dân, làm cho quân đội ta luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
4. Ngày tháng 1 “…Anh chị em trí thức ta cũng nên có cuộc vận động để góp phần vào phong trào chung đó“[4].
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện tại Hội nghị trí thức Việt Nam chống Mỹ, cứu nước, được đăng trên Báo Nhân dân, số 4296, ngày 8-1-1966; trong lúc đồng bào miền Nam đang đi từ thắng lợi này sang thắng lợi khác; phong trào chống Mỹ, cứu nước sôi nổi ở miền Bắc, quân và dân cả nước giành được nhiều thắng lợi vẻ vang.
Trong bài nói chuyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, phong trào thi đua chống Mỹ cứu nước, công nhân có cuộc vận động “3 xây, 3 chống”, nông dân có cuộc vận động “cải tiến, quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật”, phụ nữ có phong trào “ba đảm đang”, thanh niên có phong trào “ba sẵn sàng”, phụ lão một số nơi có phong trào “bạch đầu quân”. Những cuộc vận động ấy, nảy nở nhiều con người mới rất anh hùng. Anh chị em trí thức ta cũng nên có cuộc vận động để góp phần vào phong trào chung đó.
Lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời điểm ấy, không chỉ đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ trí thức, mà còn định hướng, thôi thúc, dấy lên phong trào “người người thi đua, nghành ngành thi đua; ngày ngày thi đua của mọi người, mọi ngành, mọi cấp, góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Trong giai đoạn hiện nay, phong trào thi đua yêu nước của các hội trí thức từ Trung ương đến địa phương đã có bước phát triển rộng sâu, tạo động lực, đòn bẩy tinh thần, khích lệ, động viên, cổ vũ hội viên trí thức phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, những năm qua, các tổ chức hội trí thức đã quan tâm, ghi nhận, tôn vinh những điển hình tiên tiến, có công lao, đóng góp xuất sắc trong hoạt động; qua đó tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua yêu nước “đoàn kết, sáng tạo” cống hiến sức lực, trí tuệ, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong quân đội, tinh thần thi đua yêu nước được cụ thể hóa thành phong trào thi đua quyết thắng, gắn chặt chẽ với các cuộc vận động, các phong trào thi đua của các ngành, các cấp; khơi dậy tinh thần chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng hy sinh quên mình của cán bộ, chiến sĩ trên tuyến đầu của Tổ quốc, nơi đầu sóng ngọn gió để canh trời, bám biển vì bình yên của Tổ quốc; tinh thần cháy bỏng khát vọng và đam mê của những nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu; tinh thần miệt mài, tích cực, sáng tạo của những người thợ mặc áo lính trong nhà máy, xí nghiệp, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao, thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu tuyệt đối trung thành của Đảng, của nhân dân trong thời kỳ mới.
5. Ngày 5-1: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”[5]
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa: “Gửi anh chị em họa sĩ, biết tin có cuộc trưng bày, tiếc vì bận quá, không đi xem được. Tôi gửi lời thân ái hỏi thăm anh chị em. Nhân tiện, tôi nói vài ý kiến của tôi đối với nghệ thuật, để anh chị em tham khảo. Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 1986, ngày 5 tháng 1 năm 1952; trong bối cảnh toàn thể dân Việt Nam đang thực hiện đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện” chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong thư năm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa, nghệ thuật đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; đồng thời tin tưởng, mong muốn công tác giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ họa sĩ đi đầu xung kích, sáng tạo trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; xứng đáng là chiến sĩ cách mạng trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, một trong những lực lượng tiên tiến trong sự nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc.
Lời của Người trong thư năm ấy đã nhanh chóng được anh chị em họa sĩ nói chung, họa sĩ trong quân đội nói riêng vui mừng đón nhận, hun đúc tinh thần thi đua yêu nước, hăng say, sáng tạo nhiều tác phẩm văn hóa, nghệ thuật phục vụ công cuộc kháng chiến, kiến quốc chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm ấy “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” đã được Đảng, Nhà nước ta vận dụng, phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; nâng cao chất lượng xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ – người chiến sĩ cách mạng trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, góp phần xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; thực sự là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
6. Ngày 6-1: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”[6]
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài Ba mươi năm hoạt động của Đảng: “…Các tầng lớp tiểu tư sản tuy là sôi nổi, nhưng tư tưởng bế tắc, không có đường ra. Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”, đăng trên Báo Nhân dân, số 2120, ngày 6-1-1960; trong bối cảnh Đảng ta tròn 30 tuổi, đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đẩy nhanh hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài học lớn tổng kết lịch sử, khẳng định Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng tỏ rõ là lực lượng đại biểu cho trí tuệ, ý chí của giai cấp công nhân, nhân dân Việt Nam: dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam.
Lời của Người là nguồn ánh sáng chiếu rọi khắp mọi miền đất nước, được mọi cán bộ, đảng viên của Đảng trân trọng đón nhận, tạo động lực tinh thần thi đua học tập nâng cao bản lĩnh cách mạng, kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nêu cao chủ nghĩa yêu nước, gắn bó đoàn kết cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Quân đội nhân dân Việt Nam thường xuyên được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện; không ngừng củng cố tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao bản lĩnh chính trị, phát huy truyền thống dân tộc, gắn bó mấu thitk với nhân dân, anh dũng, kiên cường, chiến đấu sáng tạo, cùng toàn dân đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Trong tình hình mới, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn thấm nhuần lời Bác năm xưa, thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong Quân đội, giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, bảo đảm cho Quân đội thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, công cụ bạo lực sắc bén, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Đảng.
7. Ngày 7-1: “Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành”[7]
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Bài nói tại trường cán bộ tự vệ Hồ Chí Minh: “…Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành. Kháng chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đã. Trước hết, mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 136, ngày 8-1-1946; trong bối cảnh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời, đang đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách thức lớn, đặt ra yêu cầu đối với Đảng ta phải củng cố, xây dựng, phát huy cao độ vai trò các tổ chức, các lực lượng, nhất là vai trò gương mẫu, đi đầu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong kháng chiến, kiến quốc.
Lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại trường cán bộ tự vệ Hồ Chí Minh đã chỉnh huấn, yêu cầu cán bộ, chiến sĩ trong các trường quân sự của Đảng, Nhà nước phải nắm vững nhiệm vụ cách mạng, vai trò tiên phong của cán bộ, đảng viên, cán bộ tự vệ; nêu cao tinh thần yêu nước, tham gia kháng chiến, kiến quốc; gương mẫu đi đầu trong hành động, tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, gắn bó giúp nhân dân, chống mọi biểu hiện: nói nhiều, nói suông; nói không đi đôi với làm, đoàn kết chiến đấu chống “thù trong, giặc ngoài”, bảo vệ thành quả cách mạng.
Thấm nhuần lời nói của Người, ngay từ đầu năm 1946, Trường cán bộ tự vệ Hồ Chí Minh và các trường quân sự đã được lãnh đạo, chỉ huy trong các nhà trường quân đội quán triệt sâu sắc, chuyển hóa thành kế hoạch hành động cách mạng, thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo cán bộ quân sự đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cách mạng; đồng thời, thôi thúc toàn quân, toàn dân tích cực đóng góp trí tuệ, công sức cho công cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc.
Hiện nay, lời năm xưa của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn được các Học viện, nhà trường trong quân đội nghiên cứu học tập, vận dụng sáng tạo vào hoạt động giáo dục – đào tạo, với phương châm gắn nhà trường với đơn vị; lý luận với thực hành, lấy thực hành làm chính; nêu cao vai trò gương mẫu của đội ngũ giảng viên, quân tâm xây dựng đội ngũ cán bộ sĩ quan quân đội vừa “hồng” vừa “chuyên”, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
8. Ngày 8-1: “Có nói sự thực thì việc tuyên truyền của mình mới có nhiều người nghe”[8]
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh Lời căn dặn các cán bộ tuyên truyền ngày 8-1-1946: “…Tuyên truyền, anh em nên chú ý một điều này nữa là bao giờ ta cũng tôn trọng sự thực. Có nói sự thực thì việc tuyên truyền của mình mới có nhiều người nghe. Ta đừng bắt chước những nước tuyên truyền tin chiến tranh quá sai lạc sự thực”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 137, ngày 9-1-1946; trong bối cảnh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ vừa ra đời, đang phải đương đầu với nhiều thách thức lớn, nhất là sự chống phá cách mạng của bọn thực dân Pháp xâm lược. Lời của Người đầu năm 1946 nhằm huấn thị cán bộ tuyên truyền phải hiểu rõ trong hoàn cảnh, nhiệm vụ nào cũng phải tôn trọng tính khách quan, chân thực, phù hợp với tình hình nhiệm vụ cách mạng, trình độ dân trí, phát huy giá trị nhân đạo truyền thống của dân tộc Việt Nam; qua đó, hình thành thái độ, phương pháp tuyên truyền phù hợp. Hơn thế, Hồ Chí Minh còn nêu lên vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác tuyên truyền là phải “tôn trọng hiện thực khách quan”, có như vậy tuyên truyền mới có nhiều người nghe, mới đạt được mục đích và kết quả tốt.
Lời của Người năm ấy được đội ngũ cán bộ tuyên truyền từ Trung ương đến địa phương quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền, góp phần
Trong lĩnh vực quân sự, cán bộ làm công tác tuyên truyền ở các cấp được nghiên cứu, quán triệt sâu sắc lời chỉnh huấn của Bác Hồ; nắm vững đường lối kháng chiến, kiến quốc; đổi mới, sáng tạo nhiều hình thức, phương pháp tuyên truyền phong phú, được cán bộ chiến s ĩ quân đội và toàn dân đón nhân.
Đến hôm nay, lời của Hồ Chí Minh đầu xuân năm ấy vẫn được đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền trong quân đội được cấp ủy, chỉ huy đơn vị lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác nghiên cứu quán triệt học tập, vận dụng nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới.
9. Ngày 9-1: “Vực thẳm thuộc địa”[9]
Là nội dung bài viết “Vực thẳm thuộc địa” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng trên Báo L’Humanité, ngày 9-1-1923; trong bối cảnh, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đang bị bộ máy chính quyền thuộc địa của thực dân Pháp thống trị, đàn áp, bóc lột tàn nhẫn; quyền độc lập, tự do thiêng liêng của dân tộc, con người Việt Nam bị chúng chà đạp, tước đoạt…; song cách mạng Việt Nam chưa có đường lối đấu tranh đúng đắn và thiếu lực lượng tiên phong lãnh đạo.
Bài viết của Người trở thành “vũ khí” tấn công vào trung tâm đầu não chính quyền thuộc địa của đế quốc Pháp lúc bấy giờ; là “tiếng chuông” thức tỉnh nhân dân tiến bộ Pháp, nhân dân các nước thuộc địa nhận thức đúng đắn bản chất phi nghĩa, tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, kêu gọi mọi người yêu nước đoàn kết đứng lên đánh đuổi đạo quân xâm lược, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Bài viết “Vực thẳng thuộc địa” của Hồ Chủ Tịch, tuy chưa ảnh hưởng sâu rộng đối với đồng bào An Nam trong thời gian ấy, song đã khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng căm phẫn tột độ của những trí thức tiến bộ; mặt khác, làm cho họ thấy rõ vai trò quan trọng của báo chí trên mặt trận đấu tranh giải phóng áp bức bóc lột, giải phóng dân tộc; là phương thức để tuyên truyền, liên lạc với các tổ chức yêu nước trên thế giới và trong đất nước An Nam; là cơ sở quan trọng để đến ngày 21/6/1925 Nguyễn Ái Quốc sáng lập và cho xuất bản số đầu tiên của Báo Thanh niên, cơ quan trung ương của Tổng bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, sáng lập nền báo chí Việt Nam.
Thấm nhuần tinh thần của bài “Vực thẳng thuộc địa”, trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, báo chí Việt Nam đã phục vụ tích cực cho nhiệm vụ tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối cách mạng của Đảng; đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng; phát động phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân đấu tranh chống thực dân, đế quốc xâm lược, thúc đẩy cao trào cách mạng, góp phần quan trọng vào thắng lợi toàn diện của cách mạng Việt Nam.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, báo chí Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng nhận thức, tư tưởng; đã bám sát đời sống xã hội, thông tin nhanh chóng các tin tức, sự kiện, đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ tới quần chúng, thực hiện tốt chức năng là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội, các đoàn thể quần chúng; là diễn đàn rộng rãi của nhân dân, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
10. Ngày 10-1: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[10]
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Bài phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, ngày 10-1-1946, đăng trên Báo Cứu quốc, số 139, ngày 11-1-1946; trong bối cảnh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới được khai sinh, đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, nhất là về tài kinh tế, tài chính; quốc khố trống rỗng, nạn đói hoành hành và nhiều vấn đề xã hội như, dân trí mù chữ, bệnh tật tràn lan… đang nổi lên gay gắt.
Lời phát biểu của Hồ Chí Minh đã nêu lên thực trạng những khó khăn chồng chất mà nhân dân cả nước đang phải đối mặt, gánh chịu; là thông điệp khẩn cấp kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nêu cao truyền thống yêu nước, tinh thần tự lực tự cường, gắng tìm mọi cách khắc phục khó khăn, giải cứu đất nước, nhân dân thoát ra khỏi cơn hoạn nạn; là tiền đề đến ngày 11/6/1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời kêu gọi thi đua ái quốc; phát động, nuôi dưỡng, phát triển các phong trào thi đua, như: “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, Hũ gạo chiến thắng”, “bình dân học vụ”… đã thu hút, cổ vũ, động viên đồng bào, chiến sĩ cả nước hăng say lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm chống giặc đói; thi đua học tập xóa nạn mù chữ chống giặc dốt; và dũng cảm ngoan cường trong chiến đấu diệt giặc ngoại xâm, làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy 5 năm, chấn động địa cầu.
Trong thời kỳ đổi mới, thấm nhuần lời Bác năm xưa, tiếp tục kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước, truyền thống cách mạng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã và đang ra sức hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước, thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, nâng cao đòi sống của nhân dân; quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu – nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững.
Quán triệt sâu sắc lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng và bản chất, truyền thống tốt đẹp hơn 70 năm qua, Quân đội nhân dân Việt Nam nêu cao tinh thần “sản xuất cũng là một mũi tiến công”, vừa là “đội quân chiến đấu”, “đội quân công tác”, vừa là “đội quân lao động sản xuất”; Quân đội ta đã chủ động ra quân trên nhiều lĩnh vực sản xuất, mạnh dạn đi vào nhiều ngành kinh tế mũi nhọn và hội nhập quốc tế; góp phần làm ra của cải vật chất cho xã hội, giữ vững và nâng cao đời sống bộ đội, tích cực tham gia giải quyết những vấn đề khó khăn về kinh tế – xã hội; tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Tổ quốc trong tình hình mới.
11. ngày …/1: “Vì ta không chịu làm trâu ngựa cho Pháp… cho nên ta phải đánh bọn thực dân Pháp. Đánh thì phải phá hoại… để chặn Pháp lại, không cho chúng tiến lên, không cho chúng lợi dụng”[11].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Đảng và Nhà nước, lời kêu gọi đồng bào tham gia cuộc phá hoại để kháng chiến đánh địch vào tháng 1 năm 1947, trong thời điểm thực dân pháp đang đánh chiếm Hà Nội và có âm mưu, thủ đoạn tiếp tục mở rộng, đánh chiếm các vùng xung quanh nơi quân và đân ta đang kiên cường kìm giữ. Người chỉ rõ: Vì ta không chịu làm trâu ngựa cho Pháp… cho nên ta phải đánh bọn thực dân Pháp. Đánh thì phải phá hoại… để chặn Pháp lại, không cho chúng tiến lên, không cho chúng lợi dụng. Các chiến sĩ ở trước mặt trận hy sinh xương máu cho Tổ quốc, họ còn không tiếc. Không lẽ đồng bào ta lại tiếc một đoạn đường, một cái cống, một ngôi nhà, mà để bọn Pháp lợi dụng, đặng đánh Tổ quốc ta.
Thực hiện chủ trương của Đảng và chính phủ, theo lời kêu gọi của Người, quân và dân ta đã hăng hái tham gia cuộc phá hoại, đồng bào ta đã tự tay phá nhà mình, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống trên hướng địch có thể hành quân đánh chiếm, nhất là các trục đường lớn từ hà Nội đi các tỉnh; qua đó đã góp tạo thế bất lợi cho chúng; ngăn chặn, cản trở, tiêu hao, tiêu dịch địch, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương đánh thắng thực dân Pháp xâm lược.
Quán triệt, vận dụng sáng tạo lời kêu gọi của Bác, cán bộ chiến sĩ các đơn vị chiến đấu đã triệt để lợi dụng hiệu quả địa hình, địa vật trên chiến trường, hạn chế, ngăn chặn hỏa lực và thế tiến công của địch; thực hiện tốt công tác chiến lợi phẩm, lấy vũ khí, trang bị đạn dược của địch để tăng cường sức mạnh chiến đấu, chiến thắng kẻ thù.
Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, đã có hàng ngàn người dân nghèo hiến tặng một phần đất ở của gia đình để góp phần xây dựng trường học, đường xá đi lại, phục vụ an sinh xã hội; đặc biệt, với những hành động quả cảm, không sợ hiểm nguy, mất mát, sẵn sàng xả thân để cứu người, cứu tài sản của nhân dân và những việc làm sẻ chia, tương trợ, giúp đỡ, đùm bọc, che chở cho đồng loại khi gặp hoạn nạn thiên tai, bão lũ, đang được khơi dậy mạnh mẽ.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, hành động quên thân xả thân vì dân, vì nước của người chiến sĩ quân đội càng được tỏa sáng và phát triển không ngừng trên mọi lĩnh vực hoạt động. Các đơn vị quân đội, tích cực thực hiện Phong trào thi đua “Quân đội chúng sức xây dựng nông thôn mới” gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; đẩy mạnh xây dựng bệnh xá quân – dân y kết hợp; thực hiện tốt phong trào “nâng bước em tới trường”,… góp phần giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết, gắn bó máu thịt quân – dân, củng cố vững chắc “thế trận lòng dân” trong tình hình mới.
12. Ngày 12-1: “Hồ Chí Minh xin gửi tới nhân dân Mỹ vĩ đại tình hữu nghị tốt đẹp nhất của nhân dân Việt Nam và hy vọng nhân dân Mỹ sẽ ủng hộ Việt Nam đấu tranh giành độc lập”[12].
Là lời trong bức Điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo Bản gốc tiếng Anh lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh, trả lời một nhà báo Mỹ vào ngày 12-1-1947; trong bối cảnh nhân dân ta đang tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, hoạt động ngoại giao của nước ta bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận.
Trong bức điện, Hồ Chí Minh nói với nhân dân Mỹ và thế giới rằng: nhân dân, Đảng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa luôn yêu chuộng hòa bình, không muốn chiến tranh đổ máu, muốn là bạn với các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Nhưng cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp đã chà đạp lên các quyền cơ bản thiêng liêng của con người, dân tộc Việt Nam, buộc nhân dân Việt Nam phải cầm súng kháng chiến. Đề nghị Nhà nước Mỹ ủng hộ, không can thiệp vào cuộc chiến tranh chính nghĩa mà nhân dân ViệtNam đang tiến hành.
Lời của Người đã góp phần giúp nhân dân Mỹ, nhân dân thế giới hiểu rõ hơn cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam; trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định đã nhận được sự ủng hộ tích cực của nhân dân tiến bộ trên thế giới; là một bài học kinh nghiệm bổ ích đối với hoạt động ngoại giao, báo chí, tuyên truyền.
Lời của Người trong bức điện trả lời nhà báo Mỹ năm xưa đến hôm nay vẫn được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân sử dụng như một tài liệu quý để nghiên cứu học tập, vận dụng nâng cao chất lượng hoạt động tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh chống lại luận điệu xuyên tạc, phủ nhân bản chất nhân văn, nhân đạo cộng sản trong đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta hiện nay.
Thấm nhuần lời của Bác và quan điểm đoàn kết quốc tế của Đảng, trải qua hơn bảy mươi năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và thực hiện nhiệm vụ quốc tế, Quân đội nhân Việt Nam đã xây dựng nên truyền thống đoàn kết quốc tế tốt đẹp “giúp bạn tức là tự giúp mình”, có tinh thần yêu nước chân chính, tinh thần quốc tế vô sản cao cả, luôn đoàn kết với nhân dân và quân đội các nước anh em, với nhân dân các nước đang đấu tranh giải phóng dân tộc và nhân dân yêu chuộng hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
13. Ngày 13-1: “Từ ngày đình chiến ở Đông Dương, đế quốc Mỹ và phe lũ liên tiếp vi phạm Hiệp định Giơnevơ, uy hiếp nghiêm trọng hòa bình và các quyền dân tộc của nhân dân Đông Dương và an ninh ở Đông Nam Á”[13].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài Nhân dân Việt Nam ủng hộ lời tuyên bố của Bộ Ngoại giao và bức thư của Bộ Tổng tư lệnh phản đối đế quốc Mỹ và tay sai của chúng vi phạm hiệp định Giơnevơ và không đồng tình với thái độ làm ngơ một số lực lượng khác, đăng trên Báo Nhân dân ngày 13-1-1955; trong bối cảnh nhân dân Việt Nam đang thi hành nghiêm túc những điều quy định trong hiệp định Giơnevơ mà các bên đã ký kết năm 1954. Trái với điều đó, đế quốc Mỹ đã ngang nhiên phá bỏ những điều quy định trong Hiệp định Giơnevơ, tìm cách duy trì sự chia cắt lâu dài nước Việt Nam, mở đầu cho kế hoạch chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bản tố cáo vạch trần làm cho nhân dân Việt Nam, nhân dân thế giới biết rõ hành động của chính quyền Ngô Đình Diệm – tay sai của đế quốc Mỹ đang đàn áp, giết hại đồng bào miền Nam Việt Nam (gây ra 1.650 vụ khủng bố bắt bớ, làm 719 người chết, 3.398 người bị thương, 1.1010 người bị bắt trong 4 tháng 8, 9, 10 và 11-1954…); thông qua đó, giúp mọi người có nhận thức đúng đắn về bản chất xấu xa tàn bạo của đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, kêu gọi nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đòi phía Ngô Đình Diệm phải thi hành nghiêm chỉnh nội dung trong hiệp định Giơnevơ.
Bài viết của Người góp phần giúp nhân dân Việt Nam, nhân dân tiến bộ trên thế giới thấu hiểu đúng đắn bản chất vô nhân đạo của chủ nghĩa đế quốc, Lời trong bài viết của Người thúc đẩy nhân dân Việt Nam củng cố lòng tin, quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ nền thống trị, nô dịch tàn bạo của đế quốc Mỹ, Chính quyền Ngô Đình Diệm tại Việt Nam.
Lời của Người năm ấy đến hôm nay vẫn là tài liệu có giá trị, đang được đông đảo nhân dân, cán bộ, chiến sĩ quân đội nghiên cứu học tập, vận dụng trong củng cố nâng cao nhận thức đúng đắn về âm mưu, hành động chống phá cách mạng, bản chất xấu xa tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc và bè lũ tai sai của chúng.
14. Ngày 14-1: “Đồng bào miền Nam thắng vì đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu anh dũng và có chính nghĩa, cho nên được nhân dân tiến bộ các nước kể cả nhân dân Mỹ đồng tình và ủng hộ. Vậy anh em binh sĩ nên làm sao đây?”[14]
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Thư gửi binh sĩ ngụy quân, ngụy quyền ở miền Nam Việt Nam, được đăng trên Báo Nhân dân ngày 14-1-1964; trong bối cảnh đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đang tăng cường thực thi kế hoạch “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam, thực thi gom dân, lập ấp, chia rẽ cộng đồng, đàn áp dã man, giết hại đồng bào vô tội…
Lời của Người trong thư gửi binh lính, khẳng định thành quả của cách mạng miền Nam, khơi dậy tinh thần đoàn kết, yêu nước, chiến đấu anh dũng, chống giặc ngoại xâm của đồng bào; đồng thời, là bản cáo trạng vạch trần tội ác của đế quốc Mỹ đã lôi kéo anh em miền Nam có “chung dòng máu” trở thành những binh sĩ – lính đánh thuê, bắt bớ, tra tấn, giết hại dã man đồng bào, người thân trong gia đình của mình. Qua đó, Hồ Chí Minh kêu gọi anh em binh sĩ trong quân đội của chính quyền sài gòn do Mỹ dựng lên, hãy tỉnh táo sáng suốt, nhận rõ âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đang dùng người miền Nam đánh người miền Nam; đẩy binh lính tỉnh này đi giết hại nhân dân tỉnh khác, trong cuộc chiến tranh “nồi da nấu thịt”.
Lời của Hồ Chỉ Minh đã tiếp tục khẳng định niềm tin chiến thắng, khích lệ, động viên tinh thần đoàn kết đấu tranh của đồng bào; chia sẻ với nỗi đau thương của nhân dân miền Nam; đồng thời, chỉ ra phương hướng, hình thức, phương pháp đấu tranh binh vận, vận động binh lính ngụy quân, ngụy quyền nhận rõ sai lầm của mình, giác ngộ cách mạng, mau chóng trở về với chính nghĩa, với nhân dân.
Nắm vững tinh thần nội dung lời thư của Hồ Chí Minh, cán bộ trong các ban dân vận đã kề vai, sát cánh cùng nhân dân trong các ấp chiến lược, làng xã, vừa đấu tranh trực diện, vừa tích cực kêu gọi binh lính, người thân của mình trong lực lượng ngụy quân, ngụy quyền quay về, chống lại việc gom dân, lập ấp… và chỉ sau hơn một năm, tổng số binh sĩ địch rã ngũ lên đến hơn 99.000 tên, số súng ta thu được là hơn 634 khẩu… Công tác binh vận vừa tạo thêm sức mạnh cho đấu tranh quân sự, vừa phát triển, phát huy thắng lợi của đấu tranh quân sự và chính trị; đồng thời, là một trong ba mũi giáp công được sử dụng hiệu quả, mạng lại những thắng lợi quan trọng, góp phần hoàn thành cách mạng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đến hôm nay, lời của Người năm xưa vẫn là một tài liệu quý, được cán bộ, chiến sĩ quân đội nghiên cứu học tập, vận dụng nâng cao chất lượng hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; nhất là trên lĩnh vực báo chí, tuyên truyền, giáo dục, dân vận và kiên quyết, khôn khéo tranh đấu tranh với các quan điểm sai trái, phản động, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội ta của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị trong tình hình mới.
15. Ngày 15-1-1950: “Công an phải có tinh thần phục vụ nhân dân, là bạn dân”[15]
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Thư gửi Hội nghị công an toàn quốc ngày 15-1-1950: “…Xây dựng bộ máy công an nhân dân. Tức là công an phải có tinh thần phục vụ nhân dân, là bạn dân. Đồng thời phải dựa vào các đoàn thể mà tổ chức và giáo dục nhân dân trong công việc phòng gian trừ gian, để nhân dân thiết thực giúp đỡ công an”, trong Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I. Lời trong thư gửi Hội nghị công an nhân dân của Người được viết trong bối cảnh Đảng ta đang lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân ta tiến hành các nhiệm vụ: thực hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; trấn áp bọn phản động, củng cố bảo vệ thành quả cách mạng.
Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi nhận những đóng góp, hy sinh lớn lao của lực lượng công an nhân dân trong những năm qua; đồng thời căn dặn lực lượng công an hãy cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ, với tinh thần vì dân, tin dân, dựa vào dân mà phục vụ nhân dân. Lời của Người trong thư gửi Hội nghị công an nhân dân được toàn thể cán bộ công an phấn khởi đón nhận, nhanh chóng lan truyền sâu rộng đến mọi tổ chức trong lực lượng công an, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ công an gắng sức thi đua lập nhiều thành tích trong bảo vệ chế độ, giữ gìn trật tự, an ninh chính trị và cuộc sống của nhân dân.
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉnh huấn lực lượng công an, không chỉ là bài học lớn đối với lực lượng công an nhân dân, mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với Quân đội nhân dân ViệtNam. Ghi sâu lời Bác năm xưa, hiện nay các đơn vị quân đội phát huy bản chất, truyền thống quân với dân như “cá với nước”, đoàn két, gắn bó, giúp đỡn nhân dân; đẩy mạnh phong trào thi đua “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, an toàn gắn với xây dựng địa bàn an toàn, góp phần củng cố, tăng cường “thế trận lòng dân”, cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
16. Ngày 16-1: “Các cô, các chú nên thấm nhuần và làm cho cán bộ thấm nhuần điều này: Phải có tinh thần cảnh giác, phòng gian bảo mật”[16]
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Bài nói tại hội nghị cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 16 tháng 1 năm 1966; in trong sách Bài nói chuyện của Hồ Chủ tịch tại Hội nghị nghiên cứu Nghị quyết của Trung ương; trong bối cảnh nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng giành được nhiều thắng lợi trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Bên cạnh thắng lợi đó, quá trình tiến hành cách mạng ở từng miền vẫn còn nhiều yếu kém sở hở, bị kẻ gian, bọn phản động lợi dụng phá hoại.
Hồ Chí Minh biểu dương, khen ngợi những tập thể, cá nhân đã lập được nhiều thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; đồng thời chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm đang tồn tại; một số nơi còn làm lộ bí mật, cán bộ nói lộ bí mật của Đảng, Nhà nước bị kẻ địch lợi dụng chống phá, gây ra nhiều bất lợi, cản trở sự phát triển của cách mạng. Người yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên trong bộ máy của Đảng, Nhà nước phải học tập, làm theo những gương điển hình; đồng thời phải sửa đổi lề lối làm việc cho thật khoa học; phải nâng cao ý thức cảnh giác, tuyệt đối giữ gìn bí mật của Đảng, Nhà nước.
Lời của Người nhanh chóng được triển khai tới mọi cán bộ, đảng viên, trong các tổ chức; tiến hành đợt sinh hoạt rút kinh nghiệm; đẩy mạnh phong trào học tập tập thể, cá nhân đạt thành tích tốt, kiên quyết khắc phục khuyết điểm; thực hiện nghiêm lề lối, nội quy làm việc. Trong lĩnh vực hoạt động quân sự, lời của Người được các đơn vị đón nhận, quán triệt sâu sắc; trao đổi rút kinh nghiệm, bồi dưỡng nâng cao nhận thức, trách nhiệm, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, lề lối làm việc khoa học của cán bộ, chiến sĩ, thực hiện tốt công tác phòng gian bảo mật quân sự, bí mật quốc gia.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đặc biệt, chúng triệt để lợi dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại để móc nối, lôi kéo, thu thập thông tin với âm mưu xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đang đặt ra yêu cầu cao đối với các cơ quan, đơn vị quân đội trong đấu tranh phòng gian, giữ gìn bí mật quân sự, bí mật quốc gia, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
17. Ngày 17-1: “Gửi toàn thể cán bộ và chiến sĩ Mặt trận trung du, đợt thứ hai chiến dịch bắt đầu như thế là khá lắm. Bác thân ái gửi lời khen các chú. Bác mong mỗi người, mỗi đơn vị đều hăng hái thi đua xung phong, giết cho nhiều địch, hạ cho nhiều đồn”[17]
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Điện gửi cán bộ và chiến sĩ Mặt trận Trung du, vào ngày 17 tháng 01 năm 1951, trong thời điểm thực dân Pháp ở Đông Dương do tướng Tátxinhi chỉ huy, đang tăng cường binh lực nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang, đàn áp, giết hại đồng bào, phá hủy mọi thành quả cách mạng; song chúng đã bị quân và dân ta đánh bại liên tiếp nhiều cuộc hành quân càn quét, đẩy địch vào thế bất lợi, binh lính hoang mang, lo sợ.
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bức Điện đã khen ngợi cán bộ, chiến sĩ Mặt trận trung du trong thời gian qua đã lập nhiều công lớn; mong muốn cán bộ và chiến sĩ Mặt trận trung du hăng hái thi đua giết giặc lập công nhiều hơn nữa. Lời khích lệ của Người đã nhanh chóng lan truyền khắp mặt trận, cổ vũ động viên nhân dân và cán bộ, chiến sĩ cả nước, phát huy thắng lợi của chiến dịch lần trước, tiếp tục đoàn kết, thi đua giữa các đơn vị trong mặt trận, lập nhiều chiến công, thắng lợi lớn, đánh đuổi giặc Pháp xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
Hiện nay, đất nước ta hòa bình, độc lập, công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa bước đầu đạt được những thành tựu quan trọng; phong trào thi đua yêu nước không ngừng được phát triển; Đảng và Nhà nước quan tâm tổ chức các hoạt động tôn vinh cái đúng, cái đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Trong quân đội, công tác thi đua và phong trào thi đua quyết thắng được đẩy mạnh, gắn chặt chẽ với Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; khơi dậy và phát huy cao độ bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, ý thức, trách nhiệm, tài năng, sức sáng tạo to lớn của cán bộ, chiến sĩ toàn quân cống hiến cho sự nghiệp cách mạng cao cả, vẻ vang, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
18. Ngày 18-1: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến”[18]
Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Bài nói bế mạc tại Hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ 6 ngày 18-1-1949: “… Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Đồng chí ta nhiều người đã làm được nhưng vẫn còn những người hủ hoá. Đảng có trách nhiệm gột rửa cho các đồng chí đó”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên về việc này trong thời điểm Đảng ta đang tập trung lãnh đạo xây dựng, củng cố, phát triển đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của công cuộc kháng chiến, kiến quốc chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng dân tộc. Người khẳng định, nhân dân là “nền gốc” sinh ra cán bộ, là cái “nôi” nuôi dưỡng, giúp đỡ cán bộ trưởng thành, phát triển. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng phải luôn tự phê bình, nhận rõ những yếu kém, khuyết điểm về đạo đức, quan hệ quần chúng và hậu quả nguy hại từ những yếu kém, khuyết điểm đó. Nhiệm vụ cấp bách mà thực tiễn cách mạng lúc này đang đòi hỏi là phải tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt với quần chúng nhân dân; từng cán bộ, đảng viên phải tự soi mình, sửa chữa ngay những yếu kém, khuyết điểm về đạo đức, thực hành tiết kiệm, chỉnh sửa lối làm việc, xây dựng tác phong công tác khoa học, gần dân.
Lời nói, cùng tấm gương đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh như nguồn sáng tiếp thêm sức mạnh cho Đảng trong nhiệm vụ lãnh đạo nâng cao chất lượng xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lời của Người nhanh chóng được truyền lan khắp mọi nơi, biến thành hành động cách mạng. Thông qua thực hiện lời của Người, những thói hư, tật xấu, lối làm việc cá nhân chủ nghĩa, thiếu khoa học, kém hiệu quả trong cán bộ, đảng viên dần được phát hiện, chấn chỉnh khắc phục, góp phần làm trong sạch Đảng, củng cố đoàn kết trong nội bộ Đảng, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Đến hôm nay, lời của Người năm xưa là tài liệu quý, để cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên nghiên cứu, học tập có ý nghĩa giáo dục có giá trị, đang được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân nghiên cứu học tập, làm theo, liên hệ thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ, góp phần nâng cao chất lượng xây dựng chỉnh đốn Đảng; kiên quyết đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, lạc hậu; chống các hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng đến xây dựng môi trường văn hóa; ngăn ngừa biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị , đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
19. Ngày 19-1: “… tranh mua gạo. Rồi họ bán lại ngay ở bên lề đường, với một giá đắt hơn. Làm như thế là “vi phú bất nhân”[19]
Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài Thôi đừng “ích kỷ hại nhân”, được đăng trên Báo Nhân dân, số 324, ngày 19-1-1955. Trong lúc nhân dân miền Bắc đã trải qua biết bao tổn thất, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; đang ra sức khắc phục hậu quả do chiến tranh để lại, xây dựng cuộc sống mới. Chính phủ luôn luôn tiếp tế, lo cho nhân dân đủ gạo để ăn. Song có bọn đầu cơ, ngày nào cũng kéo tất cả vợ chồng, cha mẹ, con cháu, anh em, người nhà đến choán hết chỗ trước cửa Mậu dịch, để tranh mua phần gạo của người khác, rồi bán lại cho những người dân ngay ở bên lề đường, với một giá đắt hơn nhiều.
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch trần trước công luận hành động bất nhân của những kẻ lợi dụng sơ hở của pháp luật, để thực hiện đầu cơ tích trữ gạo, buôn bán kiếm lời bất chính. Lời của Người là thông điệp khẩn yêu cầu các tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ các cấp phải thường xuyên giáo dục, đấu tranh ngăn chặn, xóa bỏ những tiêu cực đó đang tồn tại ở nhiều địa phương. Lời của Người nhanh chóng lan tỏa sâu rộng trong công chúng, được nhân dân ta đồng tình hưởng ứng, được các cấp bộ đảng, chính quyền quán triệt, hiện thực hóa thành kế hoạch hoạt động, phát huy vai trò cán bộ bám sát cơ sở, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, góp phần ngăn chặn tiêu cực, bảo đảm đầy đủ nhu cầu về gạo, các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân sau chiến tranh.
Trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn lực, thực hiện nhiều chính sách để ổn định, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân. Mặc dù vậy, hiệu quả quản lý xã hội, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu – nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng, nguy cơ rủi ro, mất an toàn cho con người còn cao, … là những vấn đề cấp bách đòi hỏi công tác quản lý của các cơ quan chức năng Nhà nước, địa phương phải vào cuộc kiên quyết hơn; công tác tuyên truyền đi vào thực chất hơn; công tác đấu tranh phản biện dư luận xã hội phải thiết thực, vì chất lượng cuộc sống của nhân dân lao động.
Quân đội ta luôn là lực lượng đi đầu trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiện; tích cực tham gia các chương trình, dự án xóa đói, giảm nghèo; sẵn sàng xả thân cứu tính mạng và tài sản của nhân dân khi gặp thiên tai, bão lũ; chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân khắc phục khó khăn, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm cho nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước.
20. Tháng 1-1947: “Khi thắng không kiêu, khi lui không nản! Các anh em quyết kháng chiến cho đến thắng lợi“[20].
Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài “Gửi các chiến sĩ Vệ quốc đoàn, tự vệ và dân quân toàn quốc“, được viết vào tháng một năm 1947, trong thời điểm thực dân Pháp vừa phong tỏa, lùng sục, vừa đẩy mạnh sử dụng lực lượng Việt gian chỉ điểm để đánh úp lực lượng vũ trang ở các địa phương. Song các lực lượng Vệ quốc đoàn, tự vệ và dân quân trong cả nước đã không ngại hiểm nguy, gian lao, ăn gió nằm sương, máu trôi, lửa cháy, mưa đạn rừng bom; thi đua xung phong hãm trận, giết giặc lập công, “càng đánh càng mạnh, kinh nghiệm càng nhiều”.
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhiệm vụ vẻ vang và thành tích oanh liệt của các chiến sĩ Vệ quốc đoàn, tự vệ, dân quân toàn quốc trong năm đầu chống thực dân Pháp xâm lược; Người chỉ rõ: “Khi thắng không kiêu, khi lui không nản! Các anh em quyết kháng chiến cho đến thắng lợi. Mặc kệ tàu bay, thiết giáp, các anh cứ tiến lên, cứ xông vào! Anh dũng thay! Lòng quyết thắng của anh em. Các chiến sĩ là đàn con anh hùng của Tổ quốc. Các chiến sĩ quyết đem xương máu để giữ vững non nước Lạc Hồng!”
Lời của Hồ Chí Minh tạo khí thế hào hùng, tinh thần lạc quan, tin tưởng vào cuộc kháng chiến sẻ giành thắng lợi. Dưới sự chỉ đạo của Thường vụ Trung ương Đảng, quân và dân ta đã tổ chức nhiều trận chiến đấu anh dũng “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, kìm chân và tiêu hao lực lượng địch; đồng thời, tập trung phát triển chiến tranh du kích rộng khắp, với lối đánh tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch, thực hiện phá hoại đường sá, cầu và nhà kiên cố, làm vườn không nhà trống, nhằm cản bước tiến của địch và duy trì sức chiến đấu lâu dài của quân và dân ta; tại điều kiện tổng di chuyển, ổn định nơi ở và làm việc của cơ quan lãnh đạo kháng chiến lên An toàn khu ở Việt Bắc; làm cơ sở xây dựng lực lượng vũ trang hùng hậu gồm ba thứ quân (quân chủ lực, bộ đội địa phương, và dân quân du kích), động viên toàn dân tham gia cuộc kháng chiến thắng lợi cuối cùng.
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các chiến sĩ Vệ quốc đoàn, tự vệ và dân quân toàn quốc năm ấy, đã ghi sâu vào tiềm thức của mỗi cán bộ, chiến sĩ và đã trở thành một trong những phẩm chất truyền thống tiêu biểu được kết thành 10 Lời thề danh dự của quân nhân; là niềm tự hào, nguồn cổ vũ, động viên thôi thúc các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ vững, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, kiên cường, bất khuất, sẵn sàng chiến đấu và hy sinh để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Hơn 70 năm đã trôi qua, nhưng phẩm chất tiêu biểu “…thắng không kiêu, bại không nản…” của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục được tỏa sáng trong mọi hoạt động chiến đấu, công tác, lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học… và sẽ vang vọng mãi mãi cho đến mai sau.
21. Ngày 21-1: “..mỗi một hội viên Việt Minh đều phải tuyên truyền tổ chức; phải làm cho các Hội Cứu quốc ngày càng mạnh, làm cho các đội tự vệ, các đội du kích ngày càng nhiều”[21]
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài Năm mới, công việc mới: “…Muốn tự do độc lập thì phải hy sinh tranh đấu. Vậy ngay từ đây, mỗi cán bộ, mỗi một hội viên Việt Minh đều phải tuyên truyền tổ chức; phải làm cho các Hội Cứu quốc ngày càng mạnh, làm cho các đội tự vệ, các đội du kích ngày càng nhiều. Toàn quốc đồng bào, bất kỳ già trẻ, gái trai, bất kỳ giàu nghèo, quý tiện, đều phải vào các Hội Cứu quốc. Đoàn kết được chặt chẽ, giải phóng sẽ thành công. Hỡi quốc dân, mau đoàn kết lại!”, đăng trên Báo Việt Nam độc lập, số 114, ngày 1-1-1942; trong bối cảnh nước Việt Nam đang bị đế quốc Pháp, phát xít Nhật cầu kết với nhau cùng thống trị, bóc lột, đàn áp dã man phong trào cứu quốc, giết hại đồng bào vô tội.
Trong bài viết, Hồ Chí Minh nêu lên bối cảnh tình hình thế giới, nhất là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đang diễn ra khốc liệt, đưa ra nhận định phe dân chủ do Liên Xô đứng đầu sẽ chiến thắng. Người kêu gọi mỗi hội viên Việt Minh phải chủ động tuyên truyền xây dựng, phát triển Hội, làm cho Hội cứu quốc ngày càng mạnh, lực lượng vũ trang phát triển khắp mọi nơi, hãy đoàn kết, đón thời cơ đến, để cùng nhau khởi nghĩa đánh đuổi Pháp, Nhật, làm cho Tổ quốc ta được độc lập, tự do. Lời của Người nhanh chóng được tuyên truyền rộng rãi trong xã hội, động viên, cổ vũ quần chúng tham gia các hoạt động đấu tranh cách mạng; vai trò của mặt trận Việt Minh được củng cố, mở rộng, làm nòng cốt xây dựng và phát triển các tổ chức, các lực lượng cách mạng, chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã tiếp tục nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của Người về “tổ chức Hội cứu quốc” để đúc kết thành bài học kinh nghiệm lớn “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” và luôn khẳng định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trước yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Quân ủy Trung ương – Bộ Quốc phòng và toàn quân đã quán triệt sâu sắc các chủ trương, quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc; tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tổ chức biên chế hợp lý, có trang bị từng bước hiện đại, đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống, thực sự là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
22. Ngày 22-1:“ Đồng bào các dân tộc và cán bộ, chiến sĩ Việt Bắc đã luôn luôn nêu cao truyền thống đoàn kết, trung dũng của khu căn cứ cách mạng”[22]
Đó là lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Thư gửi quân và dân Quân khu Việt Bắc trong những ngày tháng đầu năm 1968: “…Thân ái gửi đồng bào và chiến sĩ Quân khu Việt Bắc, Đến ngày 14-1-1968, quân và dân Quân khu Việt Bắc đã bắn rơi 300 máy bay Mỹ, góp phần vào chiến công vẻ vang của quân và dân miền Bắc bắn rơi hơn 2.700 máy bay Mỹ. Đồng bào các dân tộc và cán bộ, chiến sĩ Việt Bắc đã luôn luôn nêu cao truyền thống đoàn kết, trung dũng của khu căn cứ cách mạng”, đăng trên Báo Nhân dân, ngày 22 tháng 1 ngăm 1968; trong bối cảnh cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đã và đang bị quân và dân ta trên phạm cả nước đánh tan từng bước, đánh đổ từng bộ phận. Lực lượng kháng chiến của nhân dân ta phát triển nhanh chóng, miền Bắc xã hội chủ nghĩa đang tỏ rõ là hậu phương vững chắc của tuyền tuyến miền Nam.
Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi nhận công lao đóng góp to lớn của quân và dân Quân khu Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm suốt nhiều năm qua. Người kêu gọi Quân khu Việt Bắc hãy cố gắng hơn nữa, đoàn kết cùng quân và dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Lời của Người đầu năm 1968 đã được Quân khu Việt Bắc hào hứng đón nhận, nhanh chóng chuyển hóa vào hoạt động thực tiễn. Thực hiện lời của Người, Quân khu Việt Bắc đã đoàn kết thi đua, tiếp tục lập nên nhiều chiến công, thành tích vẻ vang, cùng quân và dân cả nước góp sức thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Hiện nay, các tỉnh thuộc Quân khu Việt Bắc năm xưa vẫn là địa bàn chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ViệtNamxã hội chủ nghĩa. Tiếp nối truyền thống cách mạng trong kháng chiến, trong những năm tháng của thời kỳ đổi mới, quân và dân các tỉnh thuộc Chiến khu Việt Bắc đã vững vàng vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ của đảng bộ tỉnh đặt ra; bộ mặt đô thị, nông thôn từng bước được khởi sắc; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày một cải thiệt và nâng cao.
Trong giai đoạn cách mạng mới, lực lượng vũ trang của các tỉnh tiếp tục được củng cố, xây dựng; triển khai thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; chủ động ứng phó linh hoạt, xử lý kịp thời, hiệu quả với các tình huống thiên tai, bão lũ cháy rừng… luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, được cấp ủy, chính quyền và nhân dân các địa phương tin tưởng.
23. Ngày 23-1: “Kính gửi ông Ragiăngđra Praxát, Tổng thống nước Cộng hoà Ấn Độ, nhân dịp năm mới, tôi kính chúc Tổng thống lời chúc mừng nồng nhiệt và kính chúc Chính phủ và nhân dân Ấn Độ thu được nhiều thắng lợi mới trong việc xây dựng một nước Ấn Độ ngày càng giàu mạnh. Kính chúc Tổng thống năm mới mạnh khoẻ và chúc tình hữu nghị Việt – Ấn ngày càng phát triển”[23]
Là lời trong Điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúc mừng Tổng thống Ấn Độ nhân dịp năm mới – năm 1957, đăng trên Báo Nhân dân, số 1054, ngày 23-1-1957; trong bối cảnh cách mạng Việt Nam được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhiều nước trên thế giới, trong đó có sự ủng hộ của Chính phủ và nhân dân Ấn Độ, phục vụ tích cực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Lời thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Ấn Độ thể hiện sự quan tâm của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam về mối quan hệ hữu nghị, hòa hiếu với Chính phủ và nhân dân Ấn Độ; khẳng định quan hệ ngoại giao tốt đẹp giữa Chính phủ và nhân dân hai nước tiếp tục được duy trì, phát triển; đồng thời mong muốn Tổng thống, Chính phủ và nhân dân Ấn Độ tiếp tục ủng hộ, giúp đỡ nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.
Bức Điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh chúc mừng Tổng thống Ấn Độ nhân dịp năm mới 1957, đã góp phần giữ vững và tăng cường quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và các đảng chính trị của Ấn Độ ngày càng được mở rộng; là một trong những sự kiện quan trọng, bồi đắp nên truyền thống hữu nghị lâu đời, bền chặt giữa hai dân tộc và nhân dân hai nước.
Hiện nay, tình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước, hai dân tộc bền vững, kiên định và phát triển ngày càng sâu rộng; chủ động, tin cậy, hiểu biết và ủng hộ lẫn nhau trên nhiều vấn đề khu vực và quốc tế. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Ấn Độ đang phát triển sâu sắc, ổn định trên tất cả các lĩnh vực; quan hệ hợp tác an ninh, quốc phòng tiếp tục phát triển tốt, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Cán bộ, chiến sĩ Quân đội và nhân dân Việt Nam hôm nay, luôn ghi nhớ tình cảm và sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân Ấn Độ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây và trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước hiện nay; tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đối ngoại và hoạt động hợp tác quốc phòng, trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng lẫn nhau, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, an ninh trong khu vực và trên thế giới.
24. Ngày 24-1-1952: “ Chiến sĩ thi giết giặc
Đồng bào thi tăng gia
Năm mới thi đua mới
Thắng lợi ắt về ta”[24].
Là lời trong bài Thơ chúc tết Xuân Nhâm Thìn (1952) của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “…Xuân này, Xuân năm Thìn/ Kháng chiến vừa 6 năm/ Trường kỳ và gian khổ/ Chắc thắng trăm phần trăm. Chiến sĩ thi giết giặc/ Đồng bào thi tăng gia/ Năm mới thi đua mới/ Thắng lợi ắt về ta”, đăng trên Báo Nhân dân, số 42, ngày 24-1-1952; trong thời điểm, dưới sự lãnh đạo của Đảng quân và dân ta tiếp tục giữ thế chủ động tiến công liên tục tiêu diệt nhiều sinh lực địch; đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích rộng khắp.
Lời trong bài thơ chúc tết, Hồ Chí Minh ghi nhận những hy sinh, gian khổ mà quân và dân ta đã trải qua trong 6 năm kháng chiến, kiến quốc (1946-1952), dự báo cuộc kháng chiến sẽ diễn ra căng thẳng, ác liệt trong điều kiện thế và lực của quân và dân ta trên các chiến trường đang lớn mạnh. Người kêu gọi, khơi dậy tinh thần yêu nước của toàn dân, toàn quân tích cực thi đua tăng gia sản xuất, thi đua giết giặc lập công, đưa cuộc kháng chiến mau chóng giành thắng lợi. Lời trong thư của Người nhanh chóng được tuyên truyền sâu rộng trong toàn xã hội, trên tất cả các lĩnh vực; cổ vũ, động viên khích lệ toàn dân, toàn quân nêu cao tinh thần thi đua yêu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành nhiều chiến dịch trên nhiều hướng chiến lược quan trọng như: Chiến dịch Tây Bắc Thượng Lào, Chiến dịch Bắc Tây Nguyên, các chiến dịch đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Nam Bộ…, hợp sức đẩy nhanh thực hiện cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 giành thắng lợi hoàn toàn.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục khẳng định tinh thần thi đua yêu nước là một nhân tố quan trọng tạo thành động lực phát triển đất nước. Phong trào thi đua lan tỏa rông khắp trên cả nước, ở tất cả các ngành, các cấp, các lĩnh vực hoạt động của xã hội; tạo ra động lực tinh thần quí báu, sức mạnh tổng hợp để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc pòng, an ninh và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Thấm nhuần tinh thần thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác thi đua và phong trào thi đua quyết thắng trong toàn quân, được duy trì thường xuyên, liên tục và đã trở thành truyền thống, kinh nghiệm quí báu, cổ vũ động viên cán bộ, chiến sĩ lập nên những chiến công oanh liệt trong kháng chiến giải phóng dân tộc và trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Phong trào thi đua đã trực tiếp góp phần rèn luyện, xây dựng bản lĩnh, nhân cách quân nhân, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” ; nêu cao tinh thần chủ động, sáng tạo, ý chí quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ; phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tạo cơ sở chính trị, tinh thần vững chắc để phát huy sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
25. Ngày 25-1: “Phải có một quân đội đánh giỏi và một hậu phương vững chắc”, “Mỗi một người công nhân, mỗi một người nông dân đều phải biết đánh giặc”. “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”[25].
Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Lênin dạy”, đăng trên Báo Nhân dân, số 161, từ ngày 21 đến ngày 25-1-1954. Đây là thời điểm quân và dân ta đang mở các chiến dịch lớn tiến công địch trên các chiến trường toàn quốc; kế hoạch Nava của thực dân Pháp đang trên đà phá sản; cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của nhân dân ta tiến đến giai đoạn quyết định, cần phải có sức mạnh tổng lực của lực lượng quân sự hùng mạnh và nguồn hậu cần tiếp tế hùng hậu, để đáp ứng yêu cầu của cuộc quyết chiến chiến lược giành thắng lợi.
Trong bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lại cho mọi người thấy rõ quan điểm lý luận của Lênin về tính tất yếu phải xây dựng một quân đội của giai cấp công nhân, cùng với hậu phương vững chắc, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc. Qua đó, Người chủ trương tập trung củng cố, tăng cường sức mạnh cho quân đội; cả nước hợp sức, dồn lực, xây dựng hậu phương vững chắc, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”.
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm ấy, đã trở thành định hướng chiến lược về xây dựng sức mạnh lực lượng cách mạng; được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hưởng ứng tích cực; khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, ý chí quyết tâm giành độc lập dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp tham gia xây dựng quân đội và bảo đảm hậu phương cho tuyền tuyến, giành thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Chủ trương đó, tiếp tục được Đảng, Nhà nước ta vận dụng sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển Quân đội nhân dân Việt Nam, xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn, cùng quân dân miền Nam thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.
Quán triệt sâu sắc quan điển của Lênin và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội cách mạng, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên chăm lo giáo dục, rèn luyện, nâng cao sức mạnh tổng hợp, trình độ chiến đấu của quân đội, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội, làm cho quân đội ta luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
30. Ngày 26-1: “Để thực hiện từng bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, nhằm đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, cán bộ và công nhân ngành công nghiệp phải có quyết tâm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch năm 1961, làm đà cho việc thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất”[26]
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài Nói chuyện tại Hội Nghị công nghiệp toàn miền Bắc ngày 26-1-1961, đăng trên Báo Nhân dân, số 2505, ngày 27-1-1961; trong thời điểm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đang năm đầu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm lần thứ nhất, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ III.
Trong buổi nói chuyện, Hồ Chí Minh mong muốn phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công nhân công nghiệp có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng trong sáng, có năng lực sáng tạo, ý chí quyết tâm vượt mọi khó khăn, vươn lên hoàn thành tốt chỉ tiêu, kế hoạch công nghiệp hóa đã đề ra. Người còn chỉ ra cho cán bộ dự hội nghị những biện pháp cách mạng cụ thể, nhất là tăng cường giáo dục nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm, giữ gìn kỷ luật trong công việc, quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của công nhân.
Lời của Người năm ấy được các đại biểu dự hội nghị tiếp thu nghiêm túc và nhanh chóng phổ biến, tuyên truyền rộng rãi đến mọi ngành, mọi lĩnh lao động sản xuất; đặc biệt ngành công nghiệp đã chỉ đạo đẩy mạnh phong trào thi đua, tập trung đào tào, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, nâng cao trình độ, năng lực tổ chức, quản lý, tạo nguồn lực xây dựng, phát triển ngành công nghiệp, đóng góp quan trọng vào thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Hiện nay, lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm ấy vẫn đang được cán bộ, công nhân Việt Nam nghiên cứu học tập, vận dụng, phù hợp với yêu cầu phát triển ngành công nghiệp trong điều kiện mới; tập trung cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng hiện đại; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực công nghiệp có kỹ năng, có kỹ luật và năng lực sáng tạo, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong tình hình mới.
Quán triệt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng ngành công nghiệp, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp quân đội đã và đang tập trung củng cố nâng cao chất lượng, hiệu quả lao động sản xuất; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công nhân vững vàng về chính trị, tư tưởng, giỏi về khoa học kỹ thuật; tâm huyết, chủ động, sáng tạo, tích cực nghiên cứu, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật; làm cơ sở bảo đảm nguồn lực mạnh phục vụ ngành công nghiệp quốc phòng giữ vững vị thế xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân và sự phát triển chung của đất nước.
27. Ngày 27-1: “Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh”[27]
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Thư gửi các chiến sĩ cảm tử quân Thủ đô ngày 27-1-1947: “…Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau”. Đây là thời điểm, sau hơn một tháng thực hiện Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, toàn thể nhân dân Việt Nam dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, đã và đang tập trung mọi lực lượng, tinh thần và vật chất, để chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi nhận thế hệ trẻ Việt Nam đã và đang phát huy truyền thống yêu nước của thế hệ ông cha đi trước; khích lệ, động viên lớp thanh thiếu niên, nhi đồng tiếp tục giương cao ngọn cờ truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc; tinh thần quyết chiến quật cường, bất khuất, mưu trí, khôn khéo, đoàn kết, thận trọng, dũng cảm hy sinh, cùng toàn dân đánh thắng thực dân Pháp xâm lược, giải phóng dân tộc. Lời của Người được phổ biến, tuyên truyền sâu rộng đến cán bộ chiến sĩ quân Thủ đô và các đơn vị lực lượng vũ trang, cùng toàn dân; khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao lòng yêu nước, ý chí quật cường, tinh thần sục sôi, thôi thúc cán bộ, chiến sĩ hăng hái tiến lên, thi đua chiến đấu giết giặc lập công, hoàn thành thắng cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.
Hiện nay đất nước đã hòa bình, độc lập, song cán bộ chiến sĩ quân đội mãi ghi sâu lời dạy của Bác; ghi nhớ, tri ân các anh hùng, liệt sĩ đã anh dũng kiên cường, quả cảm, sẵn sàng hy sinh dâng hiến cuộc đời và tuổi trẻ thanh xuân của mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc mãi mãi trường tồn. Sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ Thủ đo năm ấy, của các anh hùng liệt sĩ và nhân dân ta trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược đã thắp lên ngọn lửa khát vọng của tuổi trẻ, là những tấm gương cao đẹp, là bài học có giá trị giáo dục bổ ích, thiết thực nhất đối với thế hệ trẻ cả nước và cán bộ chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam hôm nay.
28. Ngày 28-1: “…bảo đảm công tác thông tin liên lạc kịp thời, chính xác, bí mật, an toàn…”[28]
Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Thư gửi cán bộ, chiến sĩ bộ đội Thông tin liên lạc, ngày 28-1-1969, nhân dịp bộ đội Thông tin liên lạc mở Đại hội thi đua lập công; Bác căn dặn “Đã có cố gắng, cần luôn cố gắng hơn nữa. Phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng; ra sức học tập thêm nghiệp vụ, kỹ thuật, bảo đảm công tác thông tin liên lạc kịp thời, chính xác, bí mật, an toàn, ngày càng tiến bộ, lập nhiều thành tích mới…”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giử lời căn dặn đến cán bộ, chiến sĩ thông tin liên lạc, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta đang diễn ra hết sức gay go, quyết liệt, từng bước giành thế chủ động chiến lược trên chiến trường; đặc biệt, bộ đội thông tin liên lạc luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, chủ động khắc phục khó khăn, giữ vững thông tin liên lạc, bảo tốt cho nhiệm vụ chiến đấu và công tác, lập được nhiều thành tích vẻ vang. Lời của Bác không chỉ là tư tưởng chỉ đạo đối với các hoạt động thông tin, liên lạc của Đảng, Nhà nước và quân đội, mà còn là sự ghi nhận, cổ vũ, động viên bộ đội Thông tin và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đang chiến đấu và công tác trên khắp mọi miền Tổ quốc, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, mưu trí, dũng cảm, đoàn kết, kỷ luật, quyết tâm giành thắng lợi hoàn toàn, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Lời căn dặn của Bác năm ấy đã được lưu truyền qua các thế hệ cán bộ chiến sĩ, là niềm vinh dự tự hào và tình cảm sâu nặng của bộ đội thông tin, liên lạc đối với Bác; trở thành phẩm chất truyền thống tiêu biểu; tiếp tục được cán bộ, chiến sĩ thông tin liên lạc hôm nay trân trọng, gìn giữ và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới; âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực ngày càng tinh vi, nguy hiểm; đặc biệt sự bùng nổ của công nghệ thông tin, đang tác động rất lớn đến công tác bảo đảm thông tin, liên lạc và an toàn bí mật quân sự, bí mật quốc gia. Đòi hỏi mỗi cán bộ chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt nam, nêu cao ý thức cảnh giác, chủ động phát hiện, phòng chống có hiệu quả các thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, cài cắm, móc nối, thu thập thông tin bí mật quân sự, bí mật quốc gia; trong đó, bộ đội thông tin, liên lạc phải là lực lượng đi đầu, gương mẫu, phát huy truyền thống bảo đảm thông tin “kịp thời, chính xác, bí mật, an toàn”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
29. Ngày 29-1: “…đoàn kết, cảnh giác, nâng cao chí khí chiến đấu, truyền thống anh dũng, kiên quyết làm tròn nhiệm vụ thì quân đội ta bất kỳ thời chiến hay thời bình sẽ là quân đội tất thắng, vô địch”[29]
Ngày 29-1-1957, tại buổi nói chuyện với các đại biểu quân đội, thương binh và quân nhân phục viên, nhân dịp tết Đinh Dậu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biểu dương và căn dặn: “…Bộ đội ta là bộ đội nhân dân, bộ đội cách mạng, có truyền thống anh dũng, khắc khổ, kiên nhẫn, cần kiệm, chất phác, việc khó khăn nguy hiểm mấy cũng không sợ, nhất định làm cho kỳ được. Đó là truyền thống, đạo đức, tác phong tốt, phải luôn luôn giữ vững và phát triển. Nếu các cô, các chú nhớ và thực hiện được “đoàn kết, cảnh giác, nâng cao chí khí chiến đấu, truyền thống anh dũng, kiên quyết làm tròn nhiệm vụ” thì quân đội ta bất kỳ thời chiến hay thời bình sẽ là quân đội tất thắng, vô địch”.
Bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh với các đại biểu quân đội, thương binh và quân nhân phục viên được diễn ra trong thời điểm đất nước ta đang bị chia cắt làm hai miền Nam, Bắc, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam đang gặp nhiều khó khăn, nhất là thiếu thốn về tiền của, vũ khí đạn dược, chưa đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Hồ Chí Minh khen ngợi những thành tích mà cán bộ, chiến sĩ quân đội ta đạt được trong kháng chiến trường kỳ, gian khổ; khẳng định truyền thống anh dũng, kiên cường, quyết chiến của quân đội. Đồng thời, Người mong muốn, mọi quân nhân, dù đang hoạt động trong quân đội, là thương binh hay đã phục viên chuyển sang lĩnh vực công tác khác, hãy phát huy truyền thống tốt đẹp của quân đội anh hùng, ra sức thi đua lập nhiều thành tích trên mọi lĩnh vực hoạt động, xứng đáng với lòng tin yêu của nhân dân Việt Nam.
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được các đại biểu nghiêm túc tiếp thu, thống nhất nhận thức và hành động; đồng thời, nhanh chóng được tuyên truyền, lan rộng đến các đơn vị quân đội, các tập thể sản xuất và mọi cơ quan, ban ngành trong xã hội, làm dấy lên phong trào làm theo lời Bác Hồ dạy… Đối với các đơn vị quân đội, phong trào thi đua, đoàn kết, cảnh giác, kỷ luật nghiêm minh, huấn luyện, chiến đấu, quyết chiến thắng lợi, được tổ chức và đẩy mạnh giành được nhiều thành tích vẻ vang, góp phần khắc phục khó khăn, nâng cao sức mạnh tổng hợp, trình độ chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, cùng toàn dân đẩy nhanh cuộc kháng chiến, kiến quốc phát triển, giành thắng lợi hoàn toàn.
Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội có bước phát triển mới; song lời dạy của Bác Hồ năm xưa vẫn còn nguyên ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị và giáo dục phẩm chất, nhân cách Bộ đội Cụ Hồ cho cán bộ, chiến sĩ; đồng thời, mãi mãi là tài sản tinh thần vô giá, phản ánh bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam, quân đội của dân, do dân và vì dân.
30. Ngày 30-1: “Mục đích của chúng ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nâng cao không ngừng đời sống nhân dân và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”[30]
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài Nói chuyện tại hội nghị phổ biến nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ ba về kế hoạch nhà nước năm 1961, đăng trên Báo Nhân dân, số 2509, ngày 31-1-1961; trong bối cảnh đế quốc Mỹ đang tăng cường cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam thành hai miền Nam, Bắc.
Trong bài nói chuyện, Hồ Chí Minh khẳng định mục đích cao nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là: Nâng cao không ngừng đời sống nhân dân, đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà. Người yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên của Đảng phải quán triệt sâu sắc, cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương thành kế hoạch hoạt động cụ thể, làm cho Nghị quyết của Đảng, kế hoạch của Nhà nước thấm sâu vào thực tiễn, tạo ra nhiều thắng lợi. Lời bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đại biểu dự Hội nghị quán triệt, tiếp thu nghiêm túc và nhanh chóng tuyên truyền, triển khai, cụ thể hóa thành kế hoạch hoạt động thiết thực, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch, thúc đẩy công cuộc xây dựng miền Bắc phát triển lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Lời nói chuyện của Bác tại buổi phổ biến Nghị quyết Trung ương ba khóa III, được các cấp ủy đảng trong Quân đội lĩnh hội, tổ chức học tập, quán triệt và triển khai chặt chẽ. Quân đội ta đã khẩn trương xây dựng kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961-1965); tập trung xây dựng Quân đội tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy, hiện đại; chủ động xây dựng các binh đoàn chủ lực có khả năng cơ động nhanh, sức chiến đấu mạnh và các binh chủng kỹ thuật… Với phương hướng xây dựng đúng đắn, quyết tâm cao, tổ chức thực hiện tốt, Quân đội ta đã nâng cao một bước sức mạnh chiến đấu; đồng thời, đã tạo ra những cơ sở thuận lợi cho việc mở rộng lực lượng, hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thấm nhuần sâu sắc lời của Người năm xưa, Đảng, Nhà nước, quân đội ta vận dụng sáng tạo vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tình hình mới; toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tập trung thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; toàn quân đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, được nhân dân tin yêu, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa..
31. Tháng 1“… công việc nào cũng quan trọng, cũng cần thiết và những người quyết tâm làm tròn nhiệm vụ đều là chiến sĩ, anh hùng“[31].
Đây là lời thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cán bộ, ngành thương binh, cựu binh, nhân Hội nghị cán bộ ngành thương binh, cựu binh vào tháng một năm 1954; trong khi quân và dân ta đang mở các chiến dịch lớn tiến công địch trên các chiến trường toàn quốc; cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của nhân dân ta tiến đến giai đoạn quyết định, cần phải tập trung xây dựng sức mạnh tổng lực, trong đó lực lượng quân sự tiếp tục được củng cố vững chắc về chính trị và tinh thần; đồng thời cần sự quan tâm, chung sức của hậu phương đối với tiền tuyến, đáp ứng yêu cầu của cuộc quyết chiến chiến lược giành thắng lợi.
Lời thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen về những việc làm tiến bộ; đồng thời chỉ rõ: “… Công việc bất kỳ to nhỏ, bất kỳ ngành nào, địa vị bất kỳ cao thấp – đều vì kháng chiến, vì dân tộc. Cho nên công việc nào cũng quan trọng, cũng cần thiết và những người quyết tâm làm tròn nhiệm vụ đều là chiến sĩ, anh hùng“. Qua đó Người thẳng thắn nhắc nhở các đại biểu và tất cả cán bộ, nhân viên trong ngành thương binh, cựu binh phải hiểu thật rõ ràng khuyết điểm; phải bàn bạc kỹ càng, đặt kế hoạch thiết thực, để giúp mọi người sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm; nghiêm túc, thật thà tự phê bình và phê bình, để cố gắng thi đua làm tròn nhiệm vụ.
Lời của Người được Hội nghị và các đại biểu quán triệt, rút kinh nghiệm sâu sắc; được lãnh đạo của ngành chỉ đạo tổ chức đợt sinh hoạt kiểm điểm tự phê bình và phê bình nghiêm túc; nhận rõ vai trò quan trọng và trách nhiệm chính trị cao cả của ngành thương binh, cựu binh; xây dựng kế hoạch, đoàn kết thi đua phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc đời sống tinh thần và vật chất cho anh em thương bình, bệnh binh, góp phần củng cố vững chắc yếu tố chính trị tinh thần của quân và dân ta, thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc.
Quán triệt sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ ta đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt nhất các chính sách đối với thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người có công với cách mạng; huy động các nguồn lực xã hội tham gia chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ; đời sống của thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ từng bước được cải thiện, bảo đảm cho gia đình chính sách có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của xã hội.
Với lòng quí trọng và biết ơn những người đã hy sinh xương máu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong thực hiện công tác chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng; tích cực tham gia có hiệu quả các hoạt động, chương trình thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa”, phối hợp làm tốt công tác chính sách hậu phương quân đội; đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Quân đội chúng sức xây dựng nông thôn mới”, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, chia sẻ, giúp đỡ gia đình chính sách, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Ngày 1/2: “Nhà nào cũng có cửa, có buồng, có hòm, có khoá, để phòng ngừa kẻ gian giảo, để giữ gìn của cải do mình khó nhọc làm ra. Giữ nhà phải cẩn thận như vậy. Giữ nước càng phải cẩn thận hơn”[32]. (Bài: Phải giữ bí mật của nhà nước, Báo Nhân dân, 1/2/1956).
Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bài: Phải giữ bí mật của nhà nước, đăng trên Báo Nhân dân, ngày 1/2/1956. Đây là giai đoạn mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức khôi phục, hàn gắn vết thương chiến tranh ở miền Bắc, và đấu tranh thống nhất nước nhà. Trong bối cảnh chủ nghĩa đế quốc, thực dân vẫn đang tìm mọi cách để phá hoại cách mạng ViệtNam, trong đó có việc sử dụng tình báo để lấy cắp thông tin bí mật của Đảng, Nhà nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn khẳng định, những bí mật nhà nước về chính trị, kinh tế, quốc phòng… là tài sản quan trọng, có liên quan đến vận mệnh quốc gia, đến sự mất còn của dân tộc và bảo vệ bí mật Nhà nước là trách nhiệm của mọi công dân. Do đó, Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi người phải cẩn thận trong tất cả các công việc, từ việc nhỏ đến việc lớn, đặc biệt là những việc liên quan đến bí mật của Nhà nước. Có như vậy, mới làm địch không thể đánh cắp được các văn kiện bí mật của ta và đó cũng là một cách để bảo vệ thành quả cách mạng, để giữ nước.
Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giúp cho mỗi người Việt Nam yêu nước nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật và sự ngăn nắp trong công việc cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Dù làm việc gì cũng phải chu đáo cẩn thận, những việc liên quan đến lợi ích của quốc gia, dân tộc thì càng phải cẩn thận, chu đáo, tỷ mỉ hơn.
Lời dạy trên của Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa quan trọng đối với quân đội nhân dân ViệtNam. Thực hiện lời dạy của Người, mỗi quân nhân, mỗi cơ quan đơn vị đã và đang làm tốt công tác phòng gian, giữ bí mật, bảo đảm an toàn tuyệt đối bí mật quân sự và bí mật quốc gia. Trong tình hình hiện nay, trước sự phát triển của công nghệ thông tin, nguy cơ bị lộ, lọt hoặc bị đánh cắp bí mật quân sự, bí mật quốc gia càng trở thành vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết. Vì vậy mỗi cán bộ, chiến sĩ phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của Đảng, Nhà nước, quân đội về bảo mật thông tin, ngăn chặn việc lộ, lọt thông tin, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng mọi lúc, mọi nơi, không để cho kẻ địch có cơ hội lấy cắp những thông tin của cá nhân, của đơn vị, của quân đội và Nhà nước. Mặt khác, cần xử lý nghiêm mọi hành vi vì lợi ích cá nhân mà cố tình cung cấp bí mật quân sự cho đối phương.
* Ngày 2/2:
“Chính phủ sẽ luôn luôn rộng lượng với những ai biết cải tà quy chính, trọng thưởng những ai biết đái tội lập công”[33]. (Thư chúc tết đồng bào vùng tạm bị địch chiếm, 2/2/1949)
Câu nói trên được Hồ Chí Minh viết trong Thư chúc tết đồng bào vùng tạm bị địch chiếm, ngày 2/2/1949). Đây là giai đoạn mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết liệt, cần phải động viên cao độ sức người, sức của cho cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Mặc dù vậy, trong vùng tạm bị địch chiếm, thực dân Pháp và các thế lực phản động đã tuyên truyền xuyên tạc, dùng đủ mọi cách ép nhân dân đi theo chúng. Do đó, có một bộ phận nhân dân do kém lập trường, thiếu niềm tin vào cách mạng đã đi theo Pháp, phục vụ cho Pháp.
Câu nói trên thể hiện sự thấu hiểu lỗi khổ của đồng bào vùng tạm bị địch chiếm trong ngày tết cổ truyền của dân tộc và tinh thần khoan dung, độ lượng của Chính quyền cách mạng. Góp phần thức tỉnh đồng bào trong vùng tạm chiếm lỡ lầm đường, lạc lối mà đi theo Pháp trở về với dân tộc, với cách mạng và kháng chiến. Câu nói thể cũng hiện tinh thần, chủ trương của chính phủ cách mạng, sẽ nghiêm khắc trừng trị những kẻ kẻ cố ý hại dân, cam tâm phản quốc, nhưng thông cảm, thấu hiểu và tha thứ cho một số nhân dân vùng tạm chiếm vì bị Pháp ép mà phải làm việc cho chúng. Đồng thời kêu gọi đồng bào, đoàn kết lấy công để chuộc tội, góp phần vào sự nghiệp chung của dân tộc. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thức tỉnh tinh thần, ý chí cách mạng, củng cố niềm tin của nhân dân Nam Bộ vào Chính phủ cách mạng, làm cho nhân dân đoàn kết chặt chẽ, giữ vững tinh thần, sẵn sàng giúp đỡ bộ đội và sẵn sàng để diệt địch, góp phần quan trọng vào củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Quán triệt quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ của quân đội, phải biết phân biệt giữa những kẻ phản động với những người lầm đường lạc lối để có cách xử lý cho phù hợp. Kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng và hành động lợi dụng dân chủ, nhân quyền để chống phá Đảng, Nhà nước, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, của dân tộc, nhưng phải tỏ rõ tinh thần độ lượng, khoan dung, tạo điều kiện cho những người vô tình bị kẻ xấu lợi dụng, dụ dỗ, mua chuộc được lập công chuộc tội. Mặt khác, cần quán triệt sâu sắc tinh thần nghiêm khắc nhưng khoan dung vào công tác dân vận và công tác tuyên truyền đặc biệt, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, của quân đội trong tình hình hiện nay.
* Ngày 3/2:
“Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng. Mỗi cấp bộ của Đảng phải là một cơ quan lãnh đạo vững chắc ở địa phương, theo đúng đường lối, chính sách của Trung ương.”[34].
Lời dạy này được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bài: Đoàn kết tiến lên giành thắng lợi mới. Bài viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 33 Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 – 3-2-1963), trong bối cảnh dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân miền Bắc đang tích cực thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và cùng với đồng bào, chiến sĩ miền Nam tiến hành cuộc đấu tranh thần thánh để thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà. Yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng lúc này đặt ra tính cấp thiết của việc đoàn kết và phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Tuy nhiên, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân chỉ có thể được phát huy khi mỗi chi bộ đảng ở cơ sở phải thực sự là hạt nhân lãnh đạo và là tấm gương mẫu mực về sự đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động. Mặt khác, để phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và các chi bộ đảng phải làm tốt công tác dân vận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ yêu cầu đối với vệc xây dựng các chi bộ ở các địa phương, các cấp, các ngành. Theo Người, các chi bộ phải thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo, phải biết đoàn kết, gắn bó và phát huy được vai trò của quần chúng. Đồng thời chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Trung ương.
Lời dạy trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành phương cho công tác xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các chi bộ và là mục tiêu phấn đấu, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên. Lời dạy của Người đã củng cố ý chí, quyết tâm, sự đoàn kết, thống nhất của các chi bộ ở cơ sở, góp phần quan trọng thúc đẩy việc thực hiện tốt kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc và phát huy sức mạnh của đồng bào, chiến sĩ miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Giờ đây, lời dạy đó vẫn còn nguyên giá trị trong việc công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta hiện nay.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một yêu cầu và định hướng quan trọng trong việc xây dựng các chi bộ trong Đảng bộ quân đội hiện nay. Theo đó, để phát huy cao độ sức mạnh của nhân tố con người trong quân đội, đòi hỏi mỗi chi bộ phải thực sự là tấm gương về sự đoàn kết, nhất trí, về lòng trung thành và luôn làm tốt công tác vận động quần chúng.
* Ngày 4/2:
“Đoàn kết đã đưa Đảng ta và nhân dân ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cho nên chúng ta quý trọng và ra sức bảo vệ sự đoàn kết nhất trí – trong Đảng và trong nhân dân ta cũng như giữa các đảng và giữa các nước anh em – như giữ gìn con ngươi của mình”[35].
Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Mừng Đảng ta 33 tuổi, vào ngày 4 tháng 2 năm 1963; nhân kỷ niệm 33 năm thành lập Đảng. Trong bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá chặng đường phát triển đã đi qua và sự ủng hộ của các đảng anh em, đồng thời khẳng định những công lao, đóng góp của Đảng đối với đất nước suốt hơn 33 năm.
Lời dạy trên thể hiện tầm quan trọng của đoàn kết, đó là nhân tố đã làm nên thắng lợi của Đảng và nhân dân ta trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Đặc biệt, trong thời kỳ cách mạng nước ta thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miềnNamthống nhất Tổ quốc. Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi phải phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế. Do vậy theo Người, chúng ta cần phải quý trọng và giữ gìn sự đoàn kết nhất trí từ trong Đảng, trong nhân dân, giữa đảng, nhà nước và nhân dân ta với đảng, nhà nước và nhân dân các nước anh em như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Lời dạy của Người không chỉ khẳng định vai trò của đoàn kết đối với thắng lợi của cách mạng, mà còn nêu lên sự cần thiết và tầm quan trọng của việc giữ gìn đoàn kết. Đồng thời, đây cũng là phương châm chỉ đạo cho đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng ta, định hướng cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của cách mạng ViệtNamqua các thời kỳ.
Với Quân đội nhân dân ViệtNam, thực hiện lợi dạy trên của Người trước hết phải tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, đặc biệt là trong tổ chức đảng, sau đó là đoàn kết giữa cấp trên với cấp dưới, giữa cán bộ với chiến sĩ và đoàn kết quân dân. Đồng thời, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng, phát huy vai trò của mình trong việc xây dựng tình đoàn kết quốc tế, thể hiện được truyền thống tốt đẹp của quân đội ta. Để giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong quân đội, đòi hỏi mỗi quân nhân phải thực hiện tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của quân đội lên trên lợi ích cá nhân, luôn phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”, gương mẫu trong lời nói và hành động, chấp hành nghiêm kỷ luật dân vận, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ quốc tế khi được phân công.
* Ngày 5/2:
“Nông dân lao động là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất chắc chắn của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công ắt phải dựa vào quần chúng nông dân”[36].
Lời dạy trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong Thư gửi Hội nghị nông vận và dân vận, ngày 5/2/1953. Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta bước sang giai đoạn phản công, đòi hỏi phải huy động cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, trong đó nông dân là một lực lượng đông đảo, cần phải phát huy cao độ mọi tiềm năng của họ và làm cho họ hăng hái tham gia vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn khẳng định vai trò của nông dân là một lực lượng to lớn của dân tộc, là đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân. Do đó sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc muốn thắng lợi thì phải dựa chắc vào nông dân, chăm lo đến lợi ích, nguyện vọng, đời sống của nông dân, khơi dậy và phát huy cao độ tinh thần cách mạng, chủ nghĩa yêu nước và sức người, sức của của nông dân.
Lời dạy trên không chỉ là nền tảng tư tưởng để Đảng ta có các chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn đối với nông dân, củng cố niềm tin của nông dân vào sự lãnh đạo của Đảng, mà còn nhấn mạnh về đối tượng, yêu cầu, nhiệm vụ và cách thức tiến hành vận động nông dân mà các chủ thể công tác vận động quần chúng cần chú ý. Mặt khác, lời dạy của Người đã động viên, khích lệ nông dân đẩy mạnh tăng gia, sản xuất tích cực đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
Thực hiện lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn thực hiện tốt chức năng công tác, làm tốt công tác dân vận, được nhân dân tin tưởng, giúp đỡ về mọi mặt. Trong giai đoạn hiện nay, để phát huy vai trò của nhân dân nói chung, nông dân nói riêng cho sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, đòi hỏi mỗi quân nhân phải làm tốt vai trò của mình trong việc đoàn kết, giúp đỡ nhân dân, nhất là nông dân, thực hiện có hiệu quả chương trình “Quân đội chung tay xây dựng nông thôn mới”. Cùng với việc sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ nhân dân, mà còn phải biết tuyên truyền vận động, củng cố tình đoàn kết quân dân, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Mặt khác, phần lớn cán bộ, chiến sĩ trong quân đội xuất thân từ nông dân, do đó cần thực hiện tốt mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với nông dân, góp phần tạo tâm lý tích cực, sự hăng hái của mỗi quân nhân.
* Ngày 6/2:
“Cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức. Nhưng trọng trí thức như thế nào? Không phải tất cả đều là trọng. Trí thức đáng trọng là trí thức hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”[37].
Đây là lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày trong buổi Khai mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, Dân, Chính ở cơ quan Trung ương, ngày 6-2-1953; là giai đoạn nước ta đang đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp. Mặt khác, Hồ Chí Minh đã dự cảm về một giai đoạn mới của cách mạng nước ta sau khi cuộc kháng chiến thắng lợi – giai đoạn kiến thiết và xây dựng. Do vậy, rất cần phải củng cố sự đoàn kết, thống nhất và phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc trong đó có đội ngũ trí thức. Tuy nhiên, lại có một bộ phận cán bộ, đảng viên còn chưa nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, chưa chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng. Thậm chí, một bộ phận cán bộ, đảng viên có thành kiến, chưa nhìn nhận, đánh giá đúng về trí thức, làm cho nhiều trí thức trong các cơ quan nhà nước cho rằng Đảng không coi trọng trí thức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò to lớn của trí thức trong phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chăm sóc sức khỏe nhân dân và mối quan hệ giữ trí thức với cách mạng. Đồng thời cũng đưa ra tiêu chuẩn về người trí thức chân chính. Lời dạy của Người không chỉ giúp chúng ta có nhận thức và thái độ đúng về trí thức, mà còn là một cơ sở để Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương xây dựng đội ngũ trí thức cách mạng. Đồng thời, đây cũng là phương hướng, mục tiêu phấn đấu của mỗi trí thức và là cơ sở để đấu tranh với những nhận thức, quan điểm, tư tưởng sai trái về trí thức.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội cần khẳng định vai trò quan trọng của trí thức trong sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trên cơ sở đó, quán triệt, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, của Quân ủy Trung ương về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức trong quân đội. Mặt khác, không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo tại các Học viện, nhà trường trong toàn quân và có chính sách đúng, cách làm hợp lý để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong quân đội. Cùng với việc đào tạo đội ngũ trí thức về chuyên môn, nghiệp vụ, cần thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ trí thức về lập trường tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng, làm cho đội ngũ trí thức tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng chính trị của Đảng. Kịp thời phát hiện và đấu tranh với những trí thức suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
* Ngày 7/2:
“Đối với tất cả các nước trên thế giới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thiết tha mong muốn duy trì tình hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ để xây dựng hòa bình thế giới lâu dài”[38].
Lời nói trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày trong Hội nghị những người Ấn nghiên cứu vấn đề quốc tế, ngày 7/2/1958. Đây là giai đoạn Người có nhiều hoạt động đối ngoại, viếng thăm các nước. Qua đó, Người thể hiện rõ quan điểm nhất quán của ViệtNamtrong đối ngoại, tố cáo những âm mưu chia cắt, cô lập đất nước ta lâu dài và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với cách mạng nước ta.
Câu nói trên đã diễn đạt đầy đủ nguyện vọng, quan điểm và đường lối đối ngoại của Việt Nam lúc bấy giờ là duy trì tình hữu nghị, sự hợp tác chân thành với tất cả các nước trên thế giới dù có chế độ chính trị khác nhau, trên nguyên tắc bình đẳng và tương trợ lẫn nhau nhằm xây dựng hòa bình trên thế giới. Quan điểm của Người là nền tảng tư tưởng cho đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta và là cơ sở để các nước có chế độ chính trị khác nhau trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ViệtNam. Quán triệt và thực hiện quan điểm của Người, hoạt động đối ngoại của nước ta không ngừng mở rộng và phát triển, đã tranh thủ được sự ủng hộ giúp đỡ to lớn của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa cũng như của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ cho cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của nhân dân ta. Đặc biệt, quan điểm đó của Người đã mở đường cho chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các hoạt động đối ngoại, Việt nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
Thực hiện lời dạy trên của Người, Quân đội nhân dân Việt Nam đã và đang quán triệt sâu sắc đường lối phát triển đất nước, đường lối quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Đảng, tích cực, chủ động tham gia vào hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc phù hợp với khả năng và bản chất nhân văn, nhân đạo của một quân đội cách mạng. Quán triệt, thực hiện quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay, quân đội cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về đối tượng, đối tác của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở đó nhận rõ đối tượng tác chiến; không ngừng chăm lo xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại để góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần gìn giữ hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
* Ngày 8/2:
“Tự mãn thì không tiến bộ được nữa; không tiến bộ tức là thoái bộ, mà thoái bộ thì không làm tròn nhiệm vụ”[39].
Đây là lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày tại Hội nghị tổng kết cải cách ruộng đất đợt II, ngày 8/2/1955; trong giai đoạn miền Bắc nước ta mới được giải phóng và bước vào cải cách ruộng đất. Trong cải cách ruộng đất có nhiều cán bộ, đảng viên, hăng hái làm đúng đường lối của Đảng, nhưng ngược lại, cũng có nhiều người mắc khuyết điểm cho mình là thạo rồi, việc gì cũng biết, tự kiêu tự mãn, chủ quan, thiếu cảnh giác, bị giai cấp địa chủ lừa gạt.
Hồ Chí Minh muốn thông qua một sự việc cụ thể trong thực hiện nhiệm vụ cải cách ruộng đất để chỉ ra bệnh tự kiêu, tự mãn và tác hại của nó đối với mỗi cán bộ, đảng viên và đối với quá trình thực hiện nhiệm vụ của cách mạng. Đây là lời cảnh tỉnh đối với tất cả mọi người, nhất là những người cách mạng, không bao giờ được tự mãn, tự kiêu, mà cần phải khiêm tốn, cầu thị, không ngừng hăng hái, phấn đấu, học hỏi để nâng cao hiểu biết, hoàn thiện kỹ năng, phương pháp, tác phong công tác, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc.
Lời dạy của Người không chỉ là yêu cầu về đạo đức cách mạng, mà còn là phương châm chỉ đạo việc học tập đối với mỗi cán bộ, đảng viên với tinh thần, học nữa, học mãi, học mọi lúc, mọi nơi, học trong nhà trường, học trong công tác, lao động, sản xuất, chiến đấu, nhất là học nhân dân. Lời dạy của Người đã góp phần khắc phục tư tưởng tự mãn, tự kiêu ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào tự học, tự rèn nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng.
Quán triệt, thực hiện lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều cán bộ quân đội với tinh thần tự học, tự rèn đã trở thành những tướng lĩnh tiêu biểu, xuất sắc trong quân đội, những cán bộ cách mạng ưu tú của Đảng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh… Ngày nay, trước yêu cầu xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đòi hỏi mỗi quân nhân, nhất là cán bộ, sĩ quan phải tích cực, chủ động học tập, rèn luyện mọi lúc, mọi nơi để không ngừng nâng cao nhận thức chính trị, củng cố vững chắc lập trường tư tưởng, có trình độ kỹ, chiến thuật, trình độ chỉ huy, quản lý tốt. Kiên quyết khắc phục những tư tưởng không đúng, nhất là bệnh chủ quan, tự mãn, tự kiêu để góp phần xây dựng đơn vị và quân đội ngày càng vững mạnh, thực sự chính quy, tinh nhuệ, luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống.
* Ngày 9/2:
“Thực hiện khẩu hiệu “Sạch làng tốt ruộng”, “Tấc đất tấc vàng” – nhà cửa, vườn tược, đường sá đều sạch sẽ, đúng vệ sinh”[40].
Là lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong Bài viết Một chi bộ tốt ở nông thôn, đăng trên Báo Nhân dân, số 2518, ngày 9-2-1961. Đây là giai đoạn miền Bắc đang tập trung thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, trong đó một yêu cầu đặt ra là phải đẩy mạnh xây dựng chi bộ ở nông thôn, làm nòng cốt lãnh đạo các địa phương phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm lãnh đạo của Chi bộ Kim An (Hà Đông), Hồ Chí Minh muốn phổ biến để các nơi khác học tập.
Lời dạy trên đề cập đến khẩu hiệu và phương châm trong phát triển sản xuất, đồng thời kết hợp với việc xây dựng, cảnh quan, môi trường, xây dựng đời sống mới ở các địa phương. Lời dạy của Người có ý nghĩa quan trọng trong định hướng phát triển nông nhiệp ở các vùng nông thôn, đặc biệt là việc kết hợp giữa phát triển sản xuất với việc bảo vệ môi trường. Đây cũng là một yêu cầu trong phát triển bền vững ở nông thôn và là một trong những tiêu chí của nông thôn mới hiện nay. Quán triệt và thực hiện lời dạy của Người, Đảng ta đã phát động phong trào khai hoang, phục hóa, tổ chức các công, nông trường để quai đê, lấn biển, mở rộng đất sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Trong giai đoạn hiện nay, sự gia tăng dân số và sự đa dạng hóa các mô hình sản xuất đang tạo nên những vấn đề nóng ở nông thôn như vấn đề sử dụng đất, vấn đề ô nhiễm môi trường… Do vậy, các chi bộ ở nông thôn cần lãnh đạo thực hiện tốt các quy hoạch của trên để đất đai được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả và bền vững. Đồng thời, cần quan tâm sâu sắc đến việc tuyên truyền, vận động nhân dân bảo vệ môi trường để không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi quân nhân cần nâng cao ý thức giữ gìn vệ sinh chung, thực hiện tốt phong trào xây dựng cảnh quan, môi trường văn hóa trong đơn vị, bảo đảm đơn vị luôn có môi trường chính quy, xanh, sạch, đẹp và phong phú. Mặt khác, mỗi quân nhân phải có ý thức giữ vệ sinh nơi thao trường huấn luyện, các đơn vị quân đội cần tích cực giúp đỡ nhân dân nơi đóng quân thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường và phát triển sản xuất. Bên cạnh đó, mỗi quân nhân cần đề cao ý thức tự phê bình và phê bình trong việc sắp đặt nội vụ, vệ sinh, nơi ăn, ở, học tập, công tác, góp phần xây dựng các đơn vị sở trong quân đội chính quy, mẫu mực về cảnh quan, môi trường.
* Ngày 10/2:
“Đảng không phải chỉ cần con số cho nhiều, tuy nhiều là tốt, nhưng phải có cái chất của người đảng viên. Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân… Làm đày tớ nhân dân chứ không phải làm “quan” nhân dân”[41].
Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Bài nói với cán bộ tỉnh Hà Tây ngày 10-2-1967 và đăng trên báo Nhân dân, số 4713, ngày 5-3-1967. Đây là lần Bác đến thăm và nói chuyện với Hợp tác xã Tảo Dương, xã Hồng Dương, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, nay thuộc thành phố Hà Nội, nhằm rút kinh nghiệm làm điểm trong xây dựng hợp tác xã, trong đó có vấn đề về xây dựng tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ.
Lời dạy của Người đề cập đến mối quan hệ giữa số lượng với chất lượng trong xây dựng đảng. Trong đó, Người nhấn mạnh đến cái chất, tức là phẩm chất cách mạng, năng lực công tác, bản lĩnh chính trị và tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên. Do đó, phát triển Đảng phải đặt trọng tâm vào chất lượng, coi trọng chất lượng, lấy chất lượng làm chính, không chạy theo số lượng thuần túy. Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên trong quan hệ với nhân dân.
Lời dạy của Người có ý nghĩa rất quan trọng, là kim chỉ nam trong công tác xây dựng Đảng. Đồng thời là cơ sở để người đảng viên xác định tốt trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với Đảng, với nhân dân. Từ đó, góp phần khắc phục những khuyết điểm đang tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Thực hiện lời dạy của Người, đại bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng tự giác tu dưỡng, rèn luyện về mọi mặt, luôn tiền phong, gương mẫu, thực sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng.
Trong suốt thời qua, thực hiện lời dạy của Người, Đảng bộ quân đội luôn quan tâm sâu sắc đến công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, bảo đảm đội ngũ cán bộ, đảng viên có chất lượng tốt trên cơ sở số lượng phù hợp đáp ứng yêu cầu xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của quân đội, góp phần giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Hiện nay, trong xây dựng Quân đội, nhất là trong phát triển đội ngũ đảng viên, cấp ủy các cấp cần chú trọng cả chất lượng và số lượng, tuy nhiên phải đề cao chất lượng, không nên chạy theo số lượng, theo chỉ tiêu đơn thuần mà xem nhẹ chất lượng đảng viên. Đồng htời, qua đây mỗi đảng viên trong quân đội nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc làm gương cho quần chúng, cho cấp dưới về phẩm chất, năng lực, phương pháp và phong cách công tác, góp phần tích cực vào kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.
* Ngày 11/2:
“Phải làm cho lực lượng của dân quân du kích thành những tấm lưới sắt rộng rãi và chắc chắn, chăng khắp mọi nơi, địch mò đến đâu là mắc lưới đến đó”[42].
Là lời của Hồ Chí Minh, trình bày trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, ngày 11/2/1951, khi bàn về việc phát triển lực lượng vũ trang 3 thứ quân “để đánh thắng nữa, đánh thắng mãi, để tiến tới tổng phản công” giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp xâm lược.
Lời dạy của Hồ Chí Minh thể hiện chủ trương, yêu cầu xây dựng và phát huy vai trò to lớn của lực lượng dân quân, du kích trong thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, nổi bật là tư tưởng về xây dựng, phát triển lực lượng dân quân du kích cả về số lượng và chất lượng chính trị, làm cho hoạt động tác chiến của dân quân, du kích tạo thành một thiên la địa võng đối với quân thù. Lời dạy trên không chỉ là cơ sở tư tưởng để Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân nói chung, lực lượng dân quân du kích nói riêng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, mà còn là sự khích lệ, động viên để lực lượng dân quân du kích phát huy cao độ thế mạnh, sở trường của mình góp phần vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, mặc dù chiến tranh hiện đại có nhiều loại vũ khí bảo đảm cho việc tác chiến từ xa, nhưng với đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng ta lấy tự vệ chính nghĩa với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân thì vai trò của lực lượng dân quân du kích không hề thay đổi. Do đó, Nhà nước ta đã ban hành luật về dân quân tự vệ làm cơ sở để cấp ủy, chính quyền các cấp lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng, phát triển lực lượng, bảo đảm tính rộng khắp và không ngừng nâng cao sức chiến đấu của lực lượng dân quân, tự vệ.
Quân đội là bộ phận nòng cốt của lực lượng vũ trang ba thứ quân, việc phối hợp chặt chẽ với hoạt động của lực lượng dân quân du kích trên từng địa bàn cụ thể vừa là nhiệm vụ vừa là nghệ thuật quân sự trong tác chiến của chiến tranh nhân dân. Trong lịch sử, quân đội đã luôn làm tốt nhiệm vụ giúp huấn luyện kỹ, chiến thuật, bồi dưỡng lập trường, tư tưởng chính trị và phối hợp chặt chẽ với lực lượng dân quân, du kích trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, quân đội cần tiếp tục làm tốt việc tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương về tổ chức biên chế, xây dựng lực lượng và huấn luyện dân quân, tự vệ. Không ngừng bổ sung, hoàn thiện phương án phối hợp tác chiến giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ, góp phần nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang ba thứ quân.
* Ngày 12/2:
“Để bảo đảm phong trào thi đua thắng lợi vẻ vang, cần có hai điều: một là cán bộ và công nhân phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, ý thức trách nhiệm và tinh thần làm chủ tập thể; hai là kế hoạch 10 phần thì biện pháp phải 20 phần và quyết tâm 30 phần”[43].
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tại Đại hội thi đua “Năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều” toàn Miền Bắc, ngày 12/2/1965. Đây là giai đoạn ở miền Bắc đang có rất nhiều phong trào thi đua yêu nước nhằm thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, mà phong trào thi đua Năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều” là một trong số đó. Hồ Chí Minh đã dự và phát biểu nhằm định hướng cho sự phát triển của phong trào.
Trong lời dạy trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những điều kiện đảm bảo cho phong trào thi đua thắng lợi phải bao gồm hai yếu tố, đó là: đối tượng tham gia thi đua và chủ thể tổ chức phong trào thi đua. Theo đó, đối tượng tham gia thi đua là công nhân, nông dân phải có đạo đức cách mạng, có trách nhiệm cao và tinh thần làm chủ tập thể. Tức là, thi đua phải trên tinh thần vì chủ nghĩa tập thể chứ không vì chủ nghĩa cá nhân, thi đua không trở thành ganh đua mà trong thi đua phải nêu cao tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Bên cạnh đó, chủ thể tổ chức phong trào thi đua ngoài việc có kế hoạch chu đáo còn phải có nhiều biện pháp thiết thực và quyết tâm cao. Tóm lại, muốn hoạt động thi đua có hiệu quả, trước hết phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao đạo đức cách mạng, làm cho mọi người có tinh thần làm chủ tập thể, triệt để thực hành tiết kiệm chống tham ô, lãng phí, chống chủ nghĩa cá nhân. Mặt khác, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm, quyết tâm cao của cả người thi đua và người tổ chức phong rào thi đua.
Quán triệt và thực hiện lời dạy của Người, các phong trào thi đua, các cuộc vận động lớn của quân đội đều dựa trên cơ sở thấm nhuần đạo đức cách mạng, hướng vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của các đơn vị và toàn quân và nhằm thực hiện tốt nhất chức năng, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Phong trào thi đua quyết thắng trong quân đội đã góp phần quan trọng tạo nên hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” và truyền thống tốt đẹp của quân đội nhân dân Việt Nam trong hơn 70 năm qua. Trong thời gian tới, quân đội sẽ tiếp tục cụ thể hóa và vận dụng sáng tạo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào nâng cao chất lượng, hiệu quả các phong trào thi đua, các cuộc vận động nhằm góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
* Ngày 13/2:
“Tư tưởng bảo thủ là như những sợi dây cột chân cột tay người ta, phải vất nó đi. Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ dám làm”[44].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Thư gửi đồng bào và cán bộ xã Nam Liên (nay là xã Kim Liên, huyệnNam Đàn, tỉnh Nghệ An), ngày 13/2/1962 sau khi Người nhận được thư chúc tết của đồng bào xã Nam Liên. Đây là thời kỳ đẩy mạnh thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965) trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miềnNam. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Do vậy, phát triển nông nghiệp trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ là vấn đề được Hồ Chí Minh rất quan tâm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tác hại của tư tưởng bảo thủ. Người ví nó như một sự trói buộc, ngăn cản sự tiến bộ của con người. Mặt khác, Người đã cổ vũ tinh thần đổi mới, mạnh dạn, dám nghĩa dám làm trong phát triển sản xuất và xây dựng hợp tác xã. Hơn nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, mọi người, nhất là cán bộ, đảng viên phải nêu gương cho quần chúng trong việc chủ động, kiên quyết khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, đường mòn lối cũ, chậm đổi mới.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh mặc dù được viết trong thư gửi một địa phương cụ thể, nhưng đã toát lên được tư tưởng đổi mới, sáng tạo của Người. Nó có sức cổ vũ cán bộ và nhân dân xã Nam Liên nói riêng, và đồng bào cả nước nói chung tích cực phấn đấu, nêu cao sáng kiến trong lao động, sản xuất, học tập, công tác cũng như chiến đấu. Lời dạy của Người đã tạo nên phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực, nhất là trong nông nghiệp và công nghiệp, góp phần quan trọng vào quá trình hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Thấm nhuần lời dạy của Người, trong quân đội đã dấy lên phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến vũ khí, trang bị kỹ thuật, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngày nay, sự nghiệp xây dựng quân đội đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra yêu cầu ngày càng cao về tinh thần mạnh dạn đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để có được nhiều sáng kiến mới, cách làm hay trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và phát huy nhân tố con người trong quân đội. Do vậy, mỗi quân nhân cần chủ động đổi mới cách nghĩ, cách làm, đề cao tự phê bình và phê bình để khắc phục những tư tưởng bảo thủ, đường mòn lối cũ, nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, góp phần bảo đảm cho đơn vị và toàn quân hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
* Ngày 14/2:
“Chế độ ta là chế độ dân chủ nhân dân; chúng ta cần mở rộng dân chủ với nhân dân, đồng thời cần phải tăng cường chuyên chính với kẻ địch của nhân dân. Có tăng cường chuyên chính với kẻ địch thì mới bảo vệ được tự do và dân chủ của nhân dân ta”[45].
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được nêu trong Báo cáo trước Hội nghị Đại biểu nhân dân Thủ đô về thành công của kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa I, ngày 14/2/1957. Qua đây, Hồ Chí Minh vừa trình bày những nội dung cơ bản của Kỳ họp, vừa thể hiện rõ tinh thần, bản chất của một chế độ mới mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang phấn đấu xây dựng.
Lời dạy của Người thể hiện rõ nét bản chất tốt đẹp của chế độ dân chủ nhân dân là không ngừng mở rộng dân chủ với các tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo. Tức là, bảo đảm cho nhân dân được làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mà trước hết là làm chủ về chính trị, có điều kiện và khả năng tham gia vào các quá trình chính trị của đất nước. Thực hiện quan điểm đó, trong Hiến pháp năm 1959 do Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo đã ghi rõ: Điều 4 “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân…” và Điều 7 “Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất Tổ quốc”.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng giúp đồng bào ta hiểu được bản chất của chế độ mới, qua đó mà tin tưởng, hăng hái phấn đấu, đóng góp sức mình vào xây dựng và bảo vệ nước nhà, ủng hộ đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước. Mặt khác, lời dạy của Người còn cho thấy mối quan hệ biện chứng giữa dân chủ và chuyên chính, định hướng cho sự nghiệp xây dựng nền chính trị của dân, do dân, vì dân ở nước ta.
Quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi ra đời đến nay, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tỏ rõ là một quân đội của dân, do dân, vì dân, tuyệt đối trung thành với lợi ích của nhân dân, luôn sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, trong giai đoạn cách mạng mới, quân đội cần phải phát huy cao độ dân chủ trong nội bộ, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Mặt khác, phải không ngừng xây dựng đơn vị vững mạnh, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
* Ngày 15/2:
“Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất thiết tha với độc lập, tự do và hòa bình… Nhân dân Việt Nam quyết không khuất phục trước vũ lực và quyết không nói chuyện trước sự đe dọa của bom đạn”[46].
Đây là quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong Thư trả lời Tổng thống Mỹ Giônxơn, ngày 15/2/1967, đăng trên Báo Nhân dân, số 4730, ngày 22-3-1967. Trước đó, trong thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 8-2-1967), Tổng thống Mỹ L.B. Giônxơn đã đưa ra những điều kiện vô lý cho việc chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc Việt Nam, chấm dứt việc đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Đồng thời, ngày 14-2-1967, L.B. Giônxơn lại ra lệnh ném bom trở lại miền Bắc. Để tiếp tục tỏ rõ thiện chí, nguyện vọng hoà bình của Việt Nam, ngày 15-2-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn gửi L.B. Giônxơn bức thư trả lời này.
Qua đây, Hồ Chí Minh khẳng định khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do. Và vì những điều đó mà nhân dân Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước bom đạn, cường quyền, sẽ quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Do đó, sẽ không có đàm phán nào được diễn ra nếu Mỹ không tôn trọng Hiệp định Giơnevơ, rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt sự đe dọa bằng bom đạn vào miền Bắc và khẳng định, không thế lực nào có thể dùng bom đạn cường quyền để ép nhân dân Việt Nam từ bỏ khát vọng chân chính của mình.
Là lời đáp trả đanh thép đó của Hồ Chí Minh đã tỏ rõ cho nhân dân Mĩ và toàn thế giới thấy được khát vọng và quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc ViệtNam. Mặt khác, đã động viên toàn thể dân tộc đứng lên kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi cuối cùng với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, các lực lượng quân giải phóng miền Nam nói riêng kết hợp chặt chẽ với nhân dân miền Nam đã đẩy mạnh đấu tranh quân sự trên cả ba vùng chiến lược làm xuất hiện nguy cơ xụp đổ hoàn toàn không thể cứu vãn nổi của giặc Mỹ và tay sai, góp phần quan trọng vào thắng lợi hoàn toàn của cuộc chống Mỹ cứu nước, giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Ngày nay, quân đội phải luôn quán triệt sâu sắc lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, biến nhận thức thành hành động cụ thể trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 16 tháng 2: “Bác mong Không quân có nhiều Cốc hơn nữa”[47].
Là lời động viên, khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Quân chủng Phòng không – Không quân tại Hội nghị gặp mặt các anh hùng quân đội thuộc Quân chủng Phòng không – Không quân, ngày 16 tháng 2 năm 1969. Đây là thời điểm quân và dân hai miềnNam – Bắc giành được nhiều thắng lợi quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược giải phóng miềnNam.
Lời động viên, khen ngợi trên không những ghi nhận thành tích xuất sắc của Quân chủng Phòng không – Không quân nói chung, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Cốc nói riêng mà còn có ý nghĩa vô cùng to lớn khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức đồng tâm, hiệp lực đánh bại mưu đồ của đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai leo thang phá hoại miềm Bắc bằng không quân và hải quân nhằm đè bẹp ý chí, quyết tâm đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta. Lời khen ngợi “Bác mong Không quân có nhiều Cốc hơn nữa” còn là động lực chính trị tinh thần lớn lao, thôi thúc toàn quân, trong đó trực tiếp là Quân chủng Phòng không – Không quân nêu cao quyết tâm, tự hào với truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, kiên quyết một lòng sắc son với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược, giải phóng dân tộc, khẳng định giá trị trường tồn về thắng lợi của chiến tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam anh hùng chống lại chiến tranh phi nghĩa.
Ngày nay, tình hình thế giới và trong nước còn nhiều diễn biến phức tạp, tranh chấp chủ quyền biển đảo, nguy cơ chiến tranh xâm lược do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiến hành vẫn còn hiện hữu. Vì thế, lời động viên, khen ngợi “Bác mong Không quân có nhiều Cốc hơn nữa” vẫn giữ nguyên giá trị, tiếp tục được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta khơi dậy mạnh mẽ trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Với lịch sử hào hùng và truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, Quân chủng Phòng không – Không quân đã và đang ra sức xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để mãi mãi xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân, hiện thực hóa lời mong của Bác “có nhiều Cốc hơn nữa”, xứng đáng là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Ngày 17 tháng 2: “Con cháu Lạc Hồng, bao giờ cũng quật cường, không bao giờ sợ khổ”[48].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong Thư gửi đồng bào tản cư, ngày 17 tháng 2 năm 1947: “Tôi và Chính phủ không giờ phút nào không lo lắng đến các đồng bào. Bây giờ đang cực khổ, thì chúng ta vui chịu với nhau. Đến ngày kháng chiến thắng lợi, độc lập thành công, chúng ta sẽ cùng nhau vui sướng. Con cháu Lạc Hồng, bao giờ cũng quật cường, không bao giờ sợ khổ”.
Lời động viên trên, không những thể hiện sự quan tâm, lo lắng, sẻ chia của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào tản cư đang ngày đêm chịu cảnh cực khổ khi nước nhà bị thực dân Pháp xâm lược, mà còn khẳng định truyền thống giống nòi, ý chí sắt đá, vượt khó vươn lên, tinh thần quật cường chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta được hình thành và phát triển ngay từ buổi đầu dựng nước và giữ nước. Qua hàng trăm cuộc khởi nghĩa và hàng chục cuộc kháng chiến lớn nhỏ, lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta đã để lại một di sản quý báu, đó là truyền thống đấu tranh anh hùng, bất khuất, bảo vệ độc lập dân tộc. Truyền thống anh hùng chống giặc ngoại xâm xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn của mọi người dân, là nguồn động viên tinh thần lớn lao, có tác dụng duy trì tinh thần chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của nhân dân ta. Cũng chính lịch sử đấu tranh giữ nước đã tạo ra và hun đúc ý chí, tự lực, tự cường dân tộc ViệtNam. Nhân dân ta nhận thức sâu sắc rằng: Nước mất thì nhà tan, do đó muốn mưu cầu tự do, ấm no, hạnh phúc, trước hết phải đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc.
Ngày nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang đồng tâm, hợp lực đẩy mạnh và thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước vừa có những thuận lợi, khó khăn đan xen. Trước yêu cầu đó, lời động viên “Con cháu Lạc Hồng, bao giờ cũng quật cường, không bao giờ sợ khổ” vẫn mang ý nghĩa thời sự sâu sắc, khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, cỗ vũ, động viên nhân dân ta, quân đội ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng nhất định sẽ chiến thắng đói nghèo, lạc hậu; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Đồng thời, nhắc nhở mỗi người dân Việt Nam nói chung, mỗi quân nhân trong quân đội ta nói riêng hãy bằng những hành động, việc làm cụ thể trong lao động, chiến đấu, thể hiện nghị lực vượt mọi khó khăn, quyết tâm làm tròn chức trách, nghĩa vụ của người cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, với tinh thần hăng say, suy nghĩ, kiến tạo và cống hiến để thực thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh chính là hiện thực hóa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó còn là sự trân trọng lịch sử, sự tôn vinh các anh hùng, liệt sĩ và cũng là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong tình hình mới.
Ngày 18 tháng 2: “Các cô các chú phải trau dồi cả đức cả tài, không có đức thì vô dụng, không có tài thì làm gì cũng khó”[49].
Là căn dặn của Chủ tịch Hồ với các sinh viên khi Người đến thăm khu Việt Nam học xá, trong bối cảnh sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miềm Bắc bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiết thiết nước nhà, là hậu phương vững chắc cho chiến trường miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Lời căn dặn trên, không chỉ khẳng định giá trị cơ bản của một con người là tài và đức mà còn đòi hỏi mỗi sinh viên Việt Nam, chủ nhân tương lai của nước nhà phải trau dồi cả đức, cả tài; phải nhận thức sâu sắc mối quan hệ hữu cơ giữa đức và tài. Đức chính là đạo đức, là tư cách tác phong, là lòng nhiệt tình, là những khát vọng chân thiện, mĩ… Tài chính là tài năng, là kiến thức, là hiểu biết, là kĩ năng, kĩ xảo, là kinh nghiệm sống để con người có thể hoàn thành công việc của mình một cách tốt nhất, đặc biệt là trong những hoàn cảnh khó khăn, những tình huống phức tạp. Tài và đức là những phạm trù khác nhau nhưng gắn bó chặt chẽ không thể tách rời. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ cho nhau để con người trở thành toàn diện, đạt hiệu quả cao trong quá trình làm việc và cống hiến. Đức được coi là hàng đầu, là cái gốc của người cách mạng. Chính vì thế, thiếu đức con người trở thành vô dụng, thiếu tài người ta làm việc gì cũng khó. Cách nói của Bác rất giản dị và cụ thể, giúp ta nhận thức đúng đắn hơn về vai trò quan trọng của đức, của tài trong phẩm chất, năng lực của mỗi con người. Lời căn dặn ấy, chính là động lực mạnh mẽ thôi thúc các sinh viên Việt Nam không ngừng phấn đấu vươn lên rèn đức, luyện tài, vì ngày mai lập nghiệp, góp sức kiến thiết nước nhà, xây dựng miềm Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước tuy có nhiều thuận lợi, nhưng khó khăn, thách thức luôn đặt ra với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Lời căn dặn: “Các cô các chú phải trau dồi cả đức cả tài, không có đức thì vô dụng, không có tài thì làm gì cũng khó” vẫn còn giữ nguyên giá trị không chỉ với các sinh viên ViệtNam mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với mỗi quân nhân trong quân đội. Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Người, mỗi quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam luôn phát huy bản chất “Bộ đội Cụ Hồ” tích cực học tập, rèn luyện cả đức và tài; tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội; xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định; không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, làm chủ vũ khí trang bị, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Ngày 19 tháng 2: “Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô các chú phải là người tốt”[50].
Là lời căn dặn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói chuyện tại Hội nghị cán bộ phụ trách thiếu nhi toàn miền Bắc, ngày 19 tháng 2 năm 1959. Đây là thời kỳ miềm Bắc bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiết thiết đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; là hậu phương vững chắc, cung cấp sức người, sức của cho đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Lời dạy trên, có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ thể hiện sự quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng các em thiếu niên nhi đồng, thế hệ trẻ tương lai của đất nước mà còn nhắc nhở đội ngũ cán bộ đào tạo mẫu giáo phải tự mình tu dưỡng, rèn luyện thực sự là người tốt, là tấm gương mẫu mực, trong sáng cho trẻ em học tập và noi theo. Đồng thời, thể hiện tư tưởng chỉ đạo đối với nền giáo dục nước nhà, biến quá trình đào tạo, giáo dục thành tự đào tạo, tự giáo dục. Người đi giáo dục trước hết phải tự giáo dục; phải là người tốt, người có tâm, có đức, yêu ngành, yêu nghề, thương yêu con trẻ như chính bản thân mình; dạy cho các em những điều hay, lẽ phải, những đức tính tốt, truyền thống thương yêu giống nòi của dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, trước những diễn biến phức tạp của đời sống chính trị, xã hội trong nước và quốc tế, trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, trước yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, lời căn dặn “Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô các chú phải là người tốt” vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Tư tưởng đó, đã, đang và sẽ được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy mạnh mẽ, góp phần thực hiện thắng lợi đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo. Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân sản xuất, lời dạy của Bác là nguồn cổ vũ, động viên cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu; ra sức học tập, trau dồi về phẩm chất đạo đức cách mạng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện tốt Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ; xây dựng con người mới trong quân đội vừa “hồng”, vừa “chuyên” đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày 20 tháng 2: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt”[51].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa, ngày 20 tháng 2 năm 1947, khi mà cuộc kháng chiến chống Pháp đang bước vào giai đoạn quyết liệt, mặc dù phải chỉ đạo kháng chiến, nhưng Bác vẫn dành thời gian đi thăm và nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa.
Lời căn dặn trên, có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ động viên, nhắc nhở đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ tỉnh Thanh Hóa nói riêng phải là mắt xích quan trọng, là dây chuyền của bộ máy, giúp cho bộ máy hoạt động có chất lượng, hiệu quả mà còn nhấn mạnh, khẳng định vị trí, vai trò to lớn của người cán bộ, cán bộ là cái gốc của mọi công việc và cái gốc của cán bộ chính là đạo đức cách mạng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng quần chúng không được giáo dục, không được tập hợp thành một khối thống nhất thì cách mạng cũng sẽ không đi đến thành công. Trách nhiệm của người cán bộ chính là người tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân và tập hợp quần chúng nhân dân thành một khối thống nhất mới tạo ra sức mạnh tổng hợp và đưa cách mạng đến thành công. Cán bộ còn là cầu nối, là dây chuyền của bộ máy, phải thực sự tận tâm, tận lực với công việc, thực sự là tấm gương trước quần chúng nhân dân, thực sự là công bộc của dân.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Namxã hội chủ nghĩa, lời căn dặn “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt” vẫn giữ nguyên giá trị, có ý nghĩa lớn lao, là tư tưởng chỉ đạo trong công tác cán bộ của Đảng ta; đồng thời, là yêu cầu đòi hỏi đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ trong quân đội nói riêng phải không ngừng học tập, tu dưỡng về phẩm chất, năng lực, thực sự là hạt nhân đoàn kết, gương mẫu, tiêu biểu về mọi mặt, tận tâm tận lực với công việc, là tấm gương sáng trong từng đơn vị để cán bộ, chiến sĩ học tập, noi theo, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Ngày 21 tháng 2: “Các cô, các chú là những thầy giáo, những cán bộ giáo dục đều phải luôn luôn cố gắng học thêm, học chính trị, học chuyên môn. Nếu không tiến bộ mãi, thì sẽ không theo kịp đà tiến chung, sẽ trở thành lạc hậu”[52].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói chuyện tại Đại hội chiến sĩ thi đua toàn ngành giáo dục, ngày 21 tháng 2 năm 1956: “Các cô, các chú đã thấy trách nhiệm to lớn của mình, đồng thời cũng thấy khả năng của mình cần được nâng cao thêm lên mãi mới làm tròn nhiệm vụ được. Vì thế, các cô, các chú là những thầy giáo, những cán bộ giáo dục đều phải luôn luôn cố gắng học thêm, học chính trị, học chuyên môn. Nếu không tiến bộ mãi, thì sẽ không theo kịp đà tiến chung, sẽ trở thành lạc hậu”.
Vào đầu năm 1956, khi miền Bắc vừa mới bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đầy khó khăn gian khổ, lời căn dặn trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định ý nghĩa của việc học tập kinh nghiệm các nước anh em là rất cần thiết mà còn nhắc nhở, động viên đội ngũ giáo viên và cán bộ ngành giáo dục phải nêu cao trách nhiệm, phải thấy rõ trách nhiệm lớn lao của mình đối với Đảng, với Chính phủ và với nhân dân. Đồng thời, thấy rõ khả năng của mình để phấn đấu nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ mọi mặt cả trình độ lý luận chính trị, cả chuyên môn nghiệp vụ thì mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, nếu không sẽ tụt hậu. Đặc biệt là học tập kinh nghiệm của các nước anh em để ứng dụng theo yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng. Thực hiện lời dạy của Bác, nhân dân cả nước nói chung, ngành giáo dục nói riêng đã ra sức học tập, trau dồi những kinh nghiệm để phục vụ cho sự nghiệp giáo dục và kiến thiết nước nhà.
Ngay nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lời dạy “Các cô, các chú là những thầy giáo, những cán bộ giáo dục đều phải luôn luôn cố gắng học thêm, học chính trị, học chuyên môn. Nếu không tiến bộ mãi, thì sẽ không theo kịp đà tiến chung, sẽ trở thành lạc hậu” vẫn còn vẹn nguyên giá trị, là tư tưởng chỉ đạo để thực hiện thắng lợi việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ quân đội nói chúng, cán bộ giảng dạy trong các học viện, trường quân đội nói riêng càng phải tích cực phấn đấu học tập, nghiên cứu, tiếp thu cái mới, ra sức rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ chính trị, năng lực chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Ngày 22 tháng 2: “Đường lối là để mà đi. Theo đúng đường lối thì đi đến nơi về đến chốn. Theo không đúng thì dễ đâm đầu vào bụi, rơi xuống mương”[53].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài “Đường lối chung của Đảng và Chính phủ ở nông thôn”. Năm 1957, khi mà công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta ở miền Bắc mới bắt đầu những bước đi đầu tiên nên cần phải đi cho đúng, đặc biệt là ở nông thôn phải xác định những bước đi phù hợp.
Lời nói trên, có ý nghĩa rất lớn, khẳng định tầm quan trọng của đường lối cách mạng trong tập hợp, dẫn dắt quần chúng nhân dân, nhân dân phải đi theo đúng đường lối của Đảng thì sẽ đi đến thành công, sẽ phát huy được khối đại đoàn kết toàn dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng; đồng thời, cũng nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên nếu xác định sai đường lối, đi sai đường lối thì sẽ không tập hợp được quần chúng nhân dân. Nhân dân đi sai đường lối thì sẽ dẫn đến thất bại. Thực hiện lời dạy của Bác, nhân dân ta nói chung, đội ngũ cán bộ nói riêng luôn trung thành với mục tiêu, lý tưởng, đường lối của Đảng; ra sức học tập, lao động sản xuất và công tác theo từng nhiệm vụ, chức trách để hiện thực hóa đường lối của Đảng vào cuộc sống, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng nâng cao, song lời dạy “Đường lối là để mà đi. Theo đúng đường lối thì đi đến nơi về đến chốn. Theo không đúng thì dễ đâm đầu vào bụi, rơi xuống mương” vẫn giữ nguyên giá trị, là cơ sở quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đẩy mạnh việc thực hiện thắng lợi đường lối chính trị xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời, là phương châm chỉ đạo, đòi hỏi đội ngũ cán bộ dù ở cương vị nào cũng vẫn là người đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Vì vậy, phải tuyên truyền cho đúng, phải hướng dẫn nhân dân thực hiện cho đúng thì công việc sẽ trôi chảy và sẽ đi đến thành công.
Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội ta càng phải thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác “Đường lối là để mà đi. Theo đúng đường lối thì đi đến nơi về đến chốn. Theo không đúng thì dễ đâm đầu vào bụi, rơi xuống mương”. Theo đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ luôn tin tưởng tuyệt đối, kiên định, đi đúng đường lối của Đảng, thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, đúng điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định trong quân đội; nêu cao tinh thần tự lực tự cường, không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần hiện thực hóa đường lối của Đảng trong cuộc sống.
Ngày 23 tháng 2: “Và bất kỳ làm công việc gì, ở địa vị nào mà làm tròn nhiệm vụ đều là vẻ vang, đều là anh hùng”[54].
Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói chuyệ với đồng bào và cán bộ tỉnh Lạng Sơn, ngày 23 tháng 2 năm 1960, khi mà công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, chúng ta chuẩn bị bước vào Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Bác đã dành thời gian đi thăm và nói chuyện đồng bào và cán bộ tỉnh Lạng Sơn.
Lời căn dặn trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý rất lớn lao không chỉ động viên, khích lệ tinh thần hăng say lao động, xây dựng nước nhà to đẹp hơn, đoàng hoàng hơn mà còn nhắc nhở mọi người dù ở cương vị nào, cán bộ, công nhân, nông dân, trí thức hay lao động chân tay dù làm bất kỳ công việc gì thì cũng đều phải tận tâm, tận lực phấn đấu thực hiện cho tốt, dù khó khăn đến đâu cũng phải làm cho kỳ được. Nếu thành công thì đều là vẻ vang, đều xứng danh anh hùng, đều được nhân dân thừa nhận.
Ngày nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong đang ra sức xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam chủ nghĩa xã hội, là sự nghiệp rất khó khăn, lâu dài, do đó lời dạy “Và bất kỳ làm công việc gì, ở địa vị nào mà làm tròn nhiệm vụ đều là vẻ vang, đều là anh hùng” vẫn còn giữ nguyên giá trị. Lời dạy của Bác, đã, đang là tư tưởng tưởng chỉ đạo, phương châm hành động cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đẩy mạng sự nghiệp đổi mới, sớn đưua nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thấm nhuần lời dạy “Và bất kỳ làm công việc gì, ở địa vị nào mà làm tròn nhiệm vụ đều là vẻ vang, đều là anh hùng”, mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải không ngừng cố gắng vươn lên, phát huy tốt tinh thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn gian khổ để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ theo cương vị chức trách, xứng đáng với lòng tin của nhân dân, được nhân dân thừa nhận thì đó là vẻ vang, là anh hùng, góp phần tô thắm thêm truyền thống vẻ vang trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Ngày 24 tháng 2: “Một quân đội văn hay võ giỏi, là một quân đội vô địch”[55].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong Thư khen ngợi toàn thể bộ đội khu II và khu III về thành tích đã xóa nạn mù chữ, ngày 24 tháng 2 năm 1948. Ngay sau cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào toàn dân, toàn quân xóa nạn mù chữ. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đơn vị bộ đội đã tích cực xóa nạn mù chữ, làm cho các binh sĩ đều biết đọc, biết viết, trong đó tiêu biểu là bộ đội khu II và khu III. Biết tin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư khen ngợi về thành tích đã xóa nạn mù chữ của toàn thể bộ đội khu II và khu III. Người cho rằng, dốt nát là một kẻ địch. Địch dốt nát giúp cho địch ngoại xâm. Địch ngoại xâm dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân.
Lời động viên, khen ngợi kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ cổ vũ, khích lệ tinh thần tích cực, hăng say học tập văn hóa của cán bộ, chiến sỹ trong quân đội mà còn thể hiện tư tưởng chỉ đạo, phương châm giáo dục học phải đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, nhà trường gắn liền với chiến trường. Nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình đối với sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, mỗi cán bộ, chiến sỹ trong quân đội đã thấu suốt rằng không chỉ có đánh giặc giỏi mà cần phải có trình độ văn hóa, phải không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn, có kiến thức toàn diện về chính trị, quân sự, nghiệp vụ, ý thức tổ chức kỷ luật, sức khỏe mới hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Trong tình hình hiện nay, trước những diễn biến phức tạp, khó lường của thế giới, khu vực và trong nước làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội, lời động viên, khen ngợi “Một quân đội văn hay võ giỏi, là một quân đội vô địch” vẫn giữ nguyên giá trị, là nguồn động viên, cổ vũ để mỗi quân nhân trong quân đội không ngừng tích cực học tập, nghiên cứu, lý luận; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tăng cường rèn luyện về phương pháp, tác phong công tác; trình độ chuyên môn, năng lực, nghiệp vụ, làm chủ vũ khí, trang bị, kỹ thuật. Thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố lòng trung thành với Tổ quốc, với Đảng và với nhân dân; lấy học tập chính trị, lý luận làm nền tảng; lấy học tập chuyên môn quân sự làm nòng cốt; lấy học tập văn hóa – xã hội làm động lực; lấy đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tiêu chí để phấn đấu hoàn thiện phẩm chất, năng lực đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn mới.
Ngày 25 tháng 2: “Quân đội ta là quân đội nhân dân. Chiến tranh của ta là chiến tranh nhân dân. Quân đội phải gắn chặt với dân”[56].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn quân đội được thể hiện trong phiên bế mạc Hội nghị Bộ Chính trị, ngày 25 tháng 2 năm 1960. Sau khi Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) đã thành công tốt đẹp; công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta ở miền Bắc đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần đảm bảo cho đấu tranh chống đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong đó có sự đóng góp đáng kể của quân đội ta.
Lời căn dặn “Quân đội ta là quân đội nhân dân. Chiến tranh của ta là chiến tranh nhân dân. Quân đội phải gắn chặt với dân” không chỉ khẳng định bản chất giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân của quân đội ta mà còn thể hiện sâu sắc mối quan hệ gắn bó keo sơn giữa quân đội với nhân dân. Đồng thời, khẳng định tính chất chiến tranh của ta là chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa, bảo vệ Tổ quốc. Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, là quân đội của dân, do dân, vì dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập chủ quyền, chế độ xã hội, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ tính mạng, tài sản và quyền làm chủ của nhân dân. Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác, trải qua 73 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, cùng toàn Đảng, toàn dân lập nên những chiến công vang dội, đánh thắng hai đế quốc đầu xỏ xâm lược là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Chính là hiện thực hóa tư tưởng chỉ đạo “chiến tranh của ta là chiến tranh nhân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày nay, nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức, những tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường; sự chống phá của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hoà bình” với những thủ đoạn hết sức thâm độc nhằm chia rẽ quân đội với nhân dân, song lời căn dặn “Quân đội ta là quân đội nhân dân. Chiến tranh của ta là chiến tranh nhân dân. Quân đội phải gắn chặt với dân” vẫn còn nguyên giá trị. Nhận thức sâu sắc ý nghĩa, giá trị lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi ý đồ đen tối của các thế lực thù địch. Đồng thời, nêu cao tinh thần đoàn kết quân dân, kính trọng nhân dân, giúp đỡ nhân dân, phục vụ nhân dân… là những việc làm thiết thực để củng cố, tăng cường mối quan hệ quân dân, nhân tố quan trọng đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Ngày 26 tháng 2: “Y tá là những chiến sỹ đánh giặc ốm, để bảo vệ sự khang kiện của giống nòi. Những chiến sỹ y tá phải có chí chịu khổ, chịu khó. Phải giàu lòng bác ái hy sinh” [57].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong Thư gửi nam nữ học viên Trường Y tá liên khu I; đăng trên báo Cứu quốc ngày 26 tháng 2 năm 1949. Trong bối cảnh, toàn Đảng toàn dân, toàn quân ta đang ra sức thi đua, thực hiện kháng chiến kiến quốc chống thực dân pháp xâm lược, Người cho rằng, mỗi người y tá phải là một chiến sỹ trên mặt trận đánh “giặc ốm” nhằm bảo vệ sức khỏe của nhân dân, bảo vệ giống nòi cho tương lai của dân tộc.
Lời dạy “Y tá là những chiến sỹ đánh giặc ốm, để bảo vệ sự khang kiện của giống nòi. Những chiến sỹ y tá phải có chí chịu khổ, chịu khó. Phải giàu lòng bác ái hy sinh” có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vừa nói lên vị trí, vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của những chiến sỹ y tá đối với sứ mệnh của nhân dân, vừa khích lệ, động viên tinh thần chịu thương, chịu khó của mỗi y tá trong chăm sóc sức khỏe người bệnh. Thực hiện lời dạy của Bác, đội ngũ y tá luôn đề cao trách nhiệm, thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; chủ động khắc phục mọi khó khăn, vất vả, thương yêu, chăm sóc, điều trị bệnh nhân, góp quan trọng vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Namxã hội chủ nghĩa, lời dạy “Y tá là những chiến sỹ đánh giặc ốm, để bảo vệ sự khang kiện của giống nòi. Những chiến sỹ y tá phải có chí chịu khổ, chịu khó. Phải giàu lòng bác ái hy sinh” không những vẫn giữ nguyên giá trị, tiếp tục là tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động trong chăm sóc sức khỏe nhân dân mà còn là yêu cầu đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nói chúng, đội ngũ y tá nói riêng phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trong chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân.
Quân đội nhân dân Việt Nam thấm nhuần lời dạy của Bác, đội ngũ y tá trong quân đội đã không ngừng học tập, nâng cao trình độ, đề cao trách nhiệm, chịu thương, chịu khó, chịu khổ, thực hiện tốt nhiệm vụ, chức trách, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn sức khỏe cho nhân dân, cho bộ đội. Trong xu thế hội nhập, phát triển, sự đầu tư, quan tâm đến các cơ sở y tế của Đảng, Nhà nước ngày càng tốt hơn. Song cho dù các cơ sở y tế có trang bị máy móc hiện đại đến đâu, cũng không thể thay thế được vị trí, vai trò của người y tá. Chính vì vậy, đội ngũ y tá trong quân đội cần nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò quan trọng của mình, không chỉ giỏi về nghiệp vụ và chăm sóc người bệnh mà còn phải biết cách động viên, an ủi người bệnh và gia đình bệnh nhân, đồng thời còn là người tư vấn, hướng dẫn, giáo dục sức khỏe cho nhân dân, cho bộ đội để xứng đáng là những người chăm sóc, bảo vệ giống nòi cho đất nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong mỏi.
Ngày 26 tháng 2: “Hạn hán cũng là một thứ giặc, chúng ta không nên chủ quan coi thường hạn hán”[58].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bài: Tuyệt đối chớ chủ quan khinh địch, với bút danh C.B, đăng trên báo Nhân dân, số 724, ngày 26 tháng 2 năm 1956. Đây là thời điểm đất nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đứng trước tình hình hạn hán đang gây thiệt hại lớn cho việc sản xuất của nhân dân. Hồ Chí Minh phê bình một số cán bộ ở địa phương thiếu quan tâm đến công tác phòng, chống hạn hán. Đồng thời, nhắc nhở, đội ngũ cán bộ chính quyền địa phương các cấp phải đề cao trách nhiệm, không thể coi thường hạn hán, bởi đó là một kẻ “địch” to.
Lời nhắc nhở “Hạn hán cũng là một thứ giặc, chúng ta không nên chủ quan coi thường hạn hán” không chỉ có ý nghĩa sâu sắc trong đẩy mạnh phong trào phòng, chống thiên tai, hạn hán trong cả nước mà còn là bài học kinh nghiệm sâu sắc trong việc bám sát cơ sở, dự báo, đề phòng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc chiến hết sức gay go, gian khổ, chống lại kẻ “địch” hạn hán. Thấm nhuần quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phòng chống thiên tai, hạn hán, các cấp chính quyền địa phương trong cả nước đã có sự quan tâm sâu sắc đến việc phòng, chống hạn hán; thường xuyên tăng cường công tác, lãnh đạo, chỉ đạo, công tác dự báo, phòng, chống thiên tai, hạn hán nhằm ổn định sản xuất và cuộc sống của nhân dân, bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cung cấp lương thực cho chiến trường miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Ngày nay, trước sự biến đổi khí hậu hết sức phức tạp, vấn đề thiên tai, hạn hán còn tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, lời dạy “Hạn hán cũng là một thứ giặc, chúng ta không nên chủ quan coi thường hạn hán” vẫn còn nguyên giá trị. Điều đó, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, quân đội và chính quyền địa phương các cấp càng phải thấm nhuần hơn nữa những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác phòng, chống thiên tai, hạn hán. Thực tế cho thấy, nhiều chủ trương, dự án phòng, chống thiên tai, hạn hán của Đảng, Nhà nước ta đã và đang được triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả thiết thực, góp phần to lớn, quan trọng phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nươc, nâng cao đời sống của nhân dân.
Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân sản xuất, thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác, trên mặt trận lao động sản xuất quân đội ta đã thực sự là một lực lượng xung kích đi đầu, góp phần không nhỏ cùng toàn Đảng, toàn dân, chính quyền địa phương các cấp tham gia vào nhiều dự án, công trình quốc gia nhằm mục đích phòng, chống thiên tai, hạn hán; tổ chức giúp đỡ và tuyên truyền, vận động nhân dân khắc phục hạn hán; tích cực tham gia phong trào trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, cập nhật thông tin, dự báo tình hình hạn hán cho nhân dân, góp phần giảm thiểu thấp nhất những tác hại của thiên tai, hạn hán đến quá trình sản xuất và cuộc sống của nhân dân.
Ngày 27 tháng 2: “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. “Lương y phải như từ mẫu” câu nói ấy rất đúng”[59].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong Thư gửi Hội nghị cán bộ y tế, ngày 27 tháng 2 năm 1955. Đây là thời điểm sau thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiến thiết nước nhà, chuẩn bị cung cấp sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược. Người yêu cầu các cán bộ y tế trong toàn ngành phải nêu cao tinh thần đoàn kết; thương yêu người bệnh; quan tâm chăm lo đến phát triển nền y học nước nhà.
Lời dạy: “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. “Lương y phải như từ mẫu” câu nói ấy rất đúng” có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ nhắc nhở, yêu cầu người cán bộ y tế giỏi về chuyên môn mà còn phải có tình thương yêu và lòng tận tụy, trách nhiệm với người bệnh. Tránh hiện tượng thiếu trách nhiệm, thờ ơ, vô cảm gây ra hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe, tính mạng của người bệnh. Thấm nhuần lời dạy của Bác đội ngũ cán bộ y tế đã không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, tâm huyết với nghề nghiệp, thấu hiểu tâm lý bệnh nhân và người nhà bệnh nhân, luôn có lòng nhân ái, yêu thương người bệnh, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện y đức, coi sinh mệnh của bệnh nhân như sinh mệnh của mình và người thân của mình, coi sự đau đớn của họ như đau đớn của chính mình, góp phần chăm sóc tốt sức khỏe cho người bệnh.
Trong tình hình hiện nay, việc chăm lo hạnh phúc, phát triển toàn diện con người Việt Nam đặt ra yêu cầu mới, lời dạy của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, chính là tư tưởng chỉ đạo, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quan tâm, chăm lo, thực hiện chiến lược đó. Quân đội nhân dân ViệtNamlà quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân nhân vì vậy, mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nói chung, ngành quân y trong quân đội nói riêng phải nhận thức đúng đắn và quán triệt sâu sắc lời dạy của Bác. Tích cực rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, giỏi về y thuật và trong sáng về y đức; đẩy mạnh việc học tập và làm theo lời Bác dạy. Ngành quân y trong quân đội cần tiếp tục tổ chức nhiều chương trình hành động thiết thực, hướng về cộng đồng. Tổ chức có hiệu quả hơn nữa các hoạt động tình nguyện, khám chữa bệnh miễn phí đến vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ở các cơ sở y tế trong quân đội cho bộ đội và nhân dân. Thực hiện có hiệu quả phong trào “chiến sỹ quân y làm theo lời Bác dạy” để thực sự xứng đáng là “mẹ hiền”, là “từ mẫu” của bệnh nhân.
Ngày 28 tháng 2: “Thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê bình tức là đoàn kết mà đấu tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước”[60].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích ở bài Nói chuyện trong buổi bế mạc Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II, ngày 28 tháng 2 năm 1957. Đầu năm 1957, miền Bắc hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội được hơn 2 năm, công tác văn nghệ cũng đã có bước phát triển mới và thành tựu mới, đến dự với Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 Bác đã phát biểu: “Thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê bình tức là đoàn kết mà đấu tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước”.
Lời dạy trên của của Chủ tich Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ khẳng định tầm quan trọng của tự phê bình, phê bình, của đấu tranh đối với đoàn kết, thống nhất trong mỗi tổ chức mà còn nhắc nhở mỗi tổ chức, mỗi người nói chung, đội ngũ cán bộ, nghệ sĩ nói riêng phải luôn đề cao ý thức phê bình, ý thức đấu tranh để xây dựng, củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong mỗi cơ quan, đơn vị, ngành mình. Đồng thời, phải nhận thức sâu sắc đấu tranh, phê bình và tự phê bình chính là quy luật, động lực của sự phát triển. Đấu tranh, phê bình phải thật thà, trung thực, không lợi dụng phê bình để trù dập lẫn nhau. Đấu tranh, phê bình để đi đến thống nhất, đoàn kết hơn, cùng nhau phát triển, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa để vững bước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, lời dạy “Thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê bình tức là đoàn kết mà đấu tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước” vẫn giữ nguyên giá trị, không những là tư tưởng chỉ đạo mà còn là yêu cầu đòi hỏi các tổ chức đảng, đoàn thể cách mạng phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất như giữ gìn con ngươi của mắt mình, phải tích cực đấu tranh, tự phê bình và phê bình, tự phê bình và phê bình phải có tình thân ái, phải đúng người, đúng việc, phải thật thà trung thực để đi đến đoàn kết và phát triển ngày càng tốt hơn.
Trong quân đội, mỗi cán bộ, chiến sĩ cần quán triệt và thực hiện nghiêm lời dạy của Bác; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; chấp hành nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình để đi đến đoàn kết, thống nhất trong từng đơn vị chính là hiện thực hóa lời dạy của Bác. Đồng thời, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải nhận thức sâu sắc về ý nghĩa của đoàn kết là sức mạnh của quân đội, tránh lợi dụng đấu tranh, phê bình và tự phê bình để chia rẽ đoàn kết nội bộ, trù dập lẫn nhau, làm ảnh hưởng đến uy tín, nhân phẩm của đồng chí, đồng đội.
Ngày 29 tháng 2: “Cần là thi đua sản xuất cho mau, cho tốt, cho nhiều. Kiệm là thi đua tiết kiệm, không lãng phí, quý trọng của công”[61].
Đây là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài Cần và kiệm, với bút danh Đ.X; đăng trên Báo Cứu quốc, số 2024, ngày 29 tháng 2 năm 1952. Trong những năm kháng chiến, kiến quốc gian khổ, Người kêu gọi nếu chúng ta thực hiện Cần và Kiệm thì kháng chiến sẽ mau thắng lợi, kiến quốc sẽ mau thành công. Cần và Kiệm là hai thành tố luôn đi đôi với nhau, gắn chặt với nhau trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, ở bất cứ công việc gì, thời điểm nào cũng cần phải ghi nhớ điều này.
Thực hiện lời dạy “Cần là thi đua sản xuất cho mau, cho tốt, cho nhiều. Kiệm là thi đua tiết kiệm, không lãng phí, quý trọng của công” của Bác, lớp lớp các thế hệ cán bộ, nhân dân đã quán triệt sâu sắc tư tưởng Cần và Kiệm, vượt qua khó khăn, gian khổ, góp phần to lớn vào thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập cho dân tộc, thống nhất đất nước và đi lên chủ nghĩa xã hội. Lời kêu gọi của Người có ý nghĩa thiết thực trong cổ vũ, động viên tinh thần thi đua sản xuất và thực hành tiết kiệm, không chỉ đối với một tổ chức, một tập thể, mà còn có ý nghĩa thiết thực đối với mỗi gia đình, mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên, quần chúng, nhất là đối với những người có chức, có quyền trong thực thi quyền hạn, trách nhiệm của mình.
Ngày nay, nước ta đang đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, lời dạy “Cần là thi đua sản xuất cho mau, cho tốt, cho nhiều. Kiệm là thi đua tiết kiệm, không lãng phí, quý trọng của công” vẫn giữ nguyên giá trị. Lời dạy đó là tư tưởng chỉ đạo, là phương châm hành động trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quân đội nhân dân ViệtNam, lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, cần thấm nhuần và quán triệt sâu sắc lời dạy của Hồ Chí Minh. Trong điều kiện hiện nay, quân đội cần tăng cường giáo dục cho cán bộ, chiến sỹ thực hiện đầy đủ các nội dung Cần và Kiệm trong tổ chức các hoạt động quân sự; trong đời sống sinh hoạt vật chất, tinh thần của bộ đội; trong đầu tư, xây dựng cơ bản; trong phát triển kinh tế quốc phòng; trong bảo quản giữ gìn vũ khí, trang bị, vật chất huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, thực hiện giữ tốt, dùng bền, tiết kiệm, an toàn, hiệu quả. Mặt khác, cần thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, vượt qua mọi cám dỗ về vật chất, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tránh tư tưởng tách rời, hoặc cố tình thực hiện Cần, Kiệm không tốt, gây lãng, thất thoát tiền, của của Nhà nước và nhân dân. Thông qua đó, góp phần quan trọng vào xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu câu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Ngày 01 tháng 3 năm 1951
“Chúng ta phải nhớ rằng: người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong, đều tuỳ chỗ mà dùng được”[62].
Lời nói trên được trích trong “Thư gửi các đồng chí Bắc bộ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người bận công việc chung không đến tham dự cùng các đồng chí Bắc Bộ để phê bình, kiểm thảo và bàn bạc công việc đẩy mạnh kháng chiến. Trong điều kiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang bước vào giai đoạn có tính chất quyết định, vấn đề đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ kháng chiến đặt ra ngày càng cấp thiết. Người đã căn dặn, về việc xây dựng, sử dụng và bố trí đội ngũ cán bộ trên cơ sở phải đánh giá đúng cán bộ, với mục đích là “phải khéo dùng cán bộ”, phải biết rõ năng lực của cán bộ (tức điểm yếu, điểm mạnh, chỗ hay, chỗ dở), cất nhắc cán bộ cho đúng, bố trí sử dụng cán bộ phải hợp lý, hợp tình, đúng người, đúng việc, đúng sở trường, vì việc mà giao người, giúp cán bộ phải đi đôi với giữ gìn cán bộ. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc trong công tác cán bộ, bởi người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở, biết dùng chỗ hay thì sẽ phát huy được thế mạnh, đồng thời giúp sữa chữa, hạn chế được chỗ dở; dùng người cũng như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được. Người nhắc nhở cần khắc phục, sửa chữa hạn chế “Thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng người”.
Công tác cán bộ muốn đạt được kết quả tốt trước hết phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc và là một quan điểm xuất phát để Đảng ta tiến hành các công việc khác của công tác cán bộ. Muốn hiểu đánh giá đúng cán bộ, trước hết phải có những tiêu chuẩn cán bộ từng loại phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, đồng thời phải biết bố trí sử dụng cán bộ đúng với nhiệm vụ, công việc cụ thể. Bố trí sai người, sai việc tất dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ mà còn làm hại cán bộ, lãng phí “chất xám”. Thực hiện lời dạy của Bác, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ.
Ngày nay, thực hiện đường lối đổi mới, việc xây dựng đội ngũ cán bộ luôn đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đối với quân đội ta ở thời kỳ nào, giai đoạn nào cũng luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trình độ năng lực chuyên môn, “vừa hồng, vừa chuyên” thực hiện quan điểm, lề lối tác phong công tác. Bởi lẽ, cán bộ là lực lượng nòng cốt xây dựng quân đội, đưa chủ trương, đường lối, chính sách nghị quyết của Đảng vào quán triệt, chỉ đạo, tổ chức thực hiện trong hoạt động của quân đội; xây dựng, huấn luyện chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, biến đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, chỉ thị mệnh lệnh cấp trên thành hiệu quả thiết thực trong đời sống chiến đấu, công tác, lao động sản xuất của quân đội. Vì vậy, bất cứ nhiệm vụ gì, dù khó khăn đến đâu, có cán bộ tốt thì thành công.
Ngày 02 tháng 3 năm 1962
“Cán bộ lãnh đạo phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư’1.
Ngày 02 tháng 3 năm 1962, Bác Hồ và đồng chí Dương Quốc Chính thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ về thăm đồng bào, bộ đội và cán bộ tỉnh Vĩnh Phúc. Tại buổi gặp mặt Bác khen ngợi xã viên các hợp tác xã, đồng bào miền núi, công nhân, bộ đội, cán bộ, các cụ phụ lão, các cháu học sinh đã ra sức sản xuất và chống hạn. Nói chuyện với cán bộ lãnh đạo tỉnh Bác căn dặn, muốn làm tốt mọi công việc thì từ tỉnh ủy đến chi bộ phải lãnh đạo tốt: Thực hiện đầy đủ các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, biến quyết tâm và sức mạnh của Đảng thành quyết tâm và sức mạnh của nhân dân; phải đi đúng đường lối của Đảng về công tác quần chúng; đi sâu vào cơ sở, đi sát hợp tác xã, tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho mọi người thấm nhuần ý thức trách nhiệm, tinh thần làm chủ tập thể, cần kiệm xây dựng hợp tác xã, xây dựng nước nhà; cán bộ lãnh đạo phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiền của tài sản công của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham lam”. “Không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình”.
Chính, “nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm phê bình để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc, để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Tư tưởng của Người về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là sự kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, đạo lý làm người của cha ông, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng đạo đức của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng ở nước ta. Người coi đó không phải chỉ là phẩm chất của cá nhân mà còn của cả tập thể, của cả dân tộc. Người yêu cầu mọi cán bộ đều phải rèn luyện, tu dưỡng theo các phẩm chất trên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Trong công cuộc đổi mới nước ta hiện nay việc tìm hiểu, học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung và xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ, đảng nhà nước nói riêng đức tính “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết, trong bối cảnh một bộ phận của xã hội, có cả cán bộ, đảng viên còn biểu hiện suy thoái đạo đức cách mạng, tham những, thoái hóa biến chất…
Ngày 03 tháng 3 năm 1955
“Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không”1.
Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ cách mạng. Người chỉ rõ những thắng lợi chúng ta đã giành được tuy rất to, nhưng mới chỉ là thắng lợi bước đầu trên đường đi lâu dài, gian khổ. Cho nên, chúng ta quyết không nên vì thắng mà kiêu, phải nhận thấy còn nhiều khó khăn để khắc phục, chứ không phải thấy khó khăn mà sợ hãi, nản chí. Người cán bộ cách mạng phải mạnh dạn, phải có quyết tâm, phải có chí khí tiến lên mãi, tiến lên không ngừng. Trong hoàn cảnh hòa bình, số đông cán bộ ta vẫn giữ vững truyền thống cách mạng tốt đẹp, cần cù chất phác, bền bỉ đấu tranh, làm tròn nhiệm vụ. Song, có một số cán bộ lầm tưởng hòa bình là thái bình, thờ ơ với đạo đức cách mạng, còn bởi tư tưởng cá nhân chủ nghĩa trước đây chi phối mà không nhận rõ phải, trái, không giữ vững lập trường, phạm những sai lầm khuyết điểm.
Đối với người cán bộ cách mạng, để không ngừng tiến bộ, thì cần phải học tập lý luận, trau dồi đạo đức; nhận rõ điều gì là phải thì cố gắng làm, điều gì là trái thì kiên quyết tránh. Phải hiểu rằng bổn phận của người cán bộ cách mạng là suốt đời hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Phải cố gắng thực hiện cho kỳ được: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải gần gũi nhân dân, học tập nhân dân, vì gần gũi nhân dân sẽ cảm thông những khó khăn, gian khổ của nhân dân, thấy rõ những gương anh hùng của nhân dân, giúp ta củng cố lập trường, trau dồi tư tưởng. Cách sửa chữa tốt nhất và quý nhất là thật thà tự phê bình và phê bình. Mỗi người cán bộ bất kỳ làm công việc gì, ở địa vị nào quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, làm tròn nhiệm vụ Đảng và Chính phủ giao cho như thế mới là thiết thực góp phần vào công cuộc đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước ta.
Thực hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam còn luôn chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ để góp phần quan trọng tới việc hoàn thành nhiệm vụ, tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. Nắm vững quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và đạo đức của người cán bộ cách mạng trong giai đoạn mới để quan tâm chỉ đạo tổ chức thực hiện thật sự khoa học, công tâm, theo một quy trình dân chủ, trong đó chú trọng việc xây dựng cán bộ chủ trì các cấp, đội ngũ cán bộ khoa học đầu ngành có trình độ chuyên môn giỏi, thật sự kiên định vững vàng, tin cậy về bản lĩnh chính trị và năng lực trí tuệ, năng động, sáng tạo, có kiến thức cơ bản trong điều hành tổ chức, giải quyết mọi nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày 4 tháng 3 năm 1955
“Xa xỉ thì nhiều bệnh, cần kiệm thì sống lâu”1
Trong bút danh C.B được Báo Nhân dân, số 367 đăng ngày 4 tháng 3 năm 1955, nói về vấn đề sức khỏe, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra mối liên hệ giữa đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên với sức khỏe của nhân dân. Người coi trong đó đạo đức, lối sống là nhân tố rất quan trọng, có ảnh hưởng đến sức khỏe con người và thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, nhất là khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta mới giành thắng lợi, miền Bắc bước vào giai đoạn khôi phục và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hết sức khó khăn, nền kinh tế lạc hậu, đội ngũ cán bộ chủ yếu chưa được đào tạo căn bản. Vì vậy, để đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện thống nhất nước nhà, bảo đảm cho nhân dân có sức khỏe tốt, có cuộc sống tốt đẹp, cần chú trọng trong công tác đào tạo và xây dựng phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, quan tâm đến sức khỏe của nhân dân; cán bộ, đảng viên cần ra sức rèn luyện, phấn đấu, tránh những thói hư, tật xấu; nhân dân hăng say rèn luyện sức khỏe nâng cao tuổi thọ… Qua đó, cùng góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Để phòng chống căn bệnh “xa xỉ” thì phải chống lối sống vô độ, xa hoa lãng phí, ăn chơi trác táng, cục bộ, ích kỷ, vụ lợi, ham quyền lực, ham của cải làm giàu bất chính, sống hưởng thụ, không chăm chỉ làm việc. Đối với đồng chí, đồng đội, không được kèn cựa, địa vị, gây mất đoàn kết; đối với nhân dân thì không được quan liêu, sách nhiễu, xa rời hoặc dân chủ giả tạo; không mải lo lợi ích cá nhân, gia đình mà quên hết lợi ích của Đảng, của dân; cơ hội, thực dụng, vụ lợi, tham nhũng, nói không đi với làm, làm trái với chủ trương, chỉ thị nghị quyết của Đảng, phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút ý chí chiến đấu, mơ hồ hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội… Đồng thời, phải “cần kiệm”, tức là phải cần cù, siêng năng với tinh thần tự lực; không xa hoa, lãng phí; xây dựng một lối sống chuẩn mực và đạo đức cách mạng trong sáng. Có như vậy mới tránh được những thói hư tật xấu, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng, để phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước.
Hiện nay, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đang đặt ra những đòi hỏi rất cao đối với phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội. Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải tiếp tục làm tốt những nội dung về xây dựng đạo đức, lối sống của Hồ Chí Minh, xác định cho mình động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, không vụ lợi cá nhân chủ nghĩa mà học tập, rèn luyện là vì mục tiêu lý tưởng của Đảng, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đem hết tài năng, trí tuệ và sức lực của mình cống hiến cho xã hội, sẵn sàng chiến đấu hy sinh để bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và hạnh phúc của nhân dân. Chống “đỗ lỗi” cho hoàn cảnh khách quan nhằm biện minh cho sự suy giảm tính tiền phong gương mẫu về đạo đức, lối sống; khắc phục, loại trừ những thói hư tật xấu, nhất là những biểu hiện xa xỉ, phung phí tiền của nhân dân, tư tưởng cá nhân chủ nghĩa; thường xuyên củng cố ý chí quyết tâm phấn đấu vươn lên…
Ngày 5 tháng 3 năm 1960
“Nếu không kiên quyết chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí, tham ô, thì nó sẽ cản trở, phá hoại ta tiến lên chủ nghĩa xã hội”1.
Lời nói trên được Hồ Chí Minh nói tại Hội nghị cán bộ Thanh tra toàn quân ngày 5 tháng 3 năm 1960. Người nhắc nhở cán bộ ban thanh tra luôn phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, làm tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, trong đó phải kiên quyết chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí tham ô của cán bộ các cấp. Việc phát hiện ra lãng phí, tham ô, chẳng những cần báo cáo với Trung ương và Chính phủ giải quyết mà còn phải giúp các cấp lãnh đạo địa phương tìm ra được những biện pháp để chủ động, tích cực phòng chống. Nước ta đang trong quá trình tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, phải thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm; không xa rời thực tế, xa rời quần chúng nhân dân và cán bộ cấp dưới; ra sức học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất, trình độ; kiên quyết tẩy trừ quan liêu vì nếu mắc phải sẽ sinh ra bệnh mệnh lệnh, thích ra các chỉ thị mệnh lệnh mang tính hách dịch, cửa quyền, sinh ra bệnh lãng phí, tham ô… Tất cả loại bệnh này nếu không được sớm phát hiện và kiên quyết loại bỏ thì kẻ thù phá hoại con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta ngày càng khẳng định rõ năng lực và bản lĩnh trí tuệ lãnh đạo đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức tiến nhanh trên con đường hội nhập khu vực và quốc tế. Tuy nhiên những biểu hiện của mặt trái nền kinh tế thị trường mở cửa đang trở thành vấn nạn xã hội nhức nhối, thậm chí đang là thách thức lớn đối với việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước. Chống quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí, tham ô, tham nhũng không còn là vấn đề riêng của bất kì quốc gia nào, nó đang là cuộc chiến quyết liệt mang tính toàn cầu. Vì vậy, đấu tranh chống quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí, tham ô và tiêu cực xã hội là nhiệm vụ hàng đầu đang được Đảng, Nhà nước thực hiện quyết liệt. Đấu tranh chống quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí, tham ô phải đi đôi với việc triển khai sâu rộng cuộc vận động học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Mỗi cán bộ, đảng viên quân đội cần phải thường xuyên thực hiện tốt di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh; phải nâng cao đạo đức cách mạng, thật sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Đồng thời, các cơ quan, đơn vị phải có những biện pháp đồng bộ, tăng cường công tác giáo dục, kiểm tra, giám sát, thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí, tham ô; nêu cao tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình, thực hiện nghiêm túc 19 điều quy định của đảng viên nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 6 tháng 3 năm 1948
“Nạn giấy tờ đã làm tốn của hao công của nhân dân, nó cũng làm hỏng tư tưởng và tác phong của cán bộ… là mẹ đẻ ra nạn tham ô, lãng phí”[63]
Trong bài viết “Chống nạn giấy tờ” đăng tải trên báo Nhân Dân số 170, ngày 6 tháng 3 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: Nạn giấy tờ đã làm tốn của hao công của nhân dân, nó cũng làm hỏng tư tưởng và tác phong của cán bộ… là mẹ đẻ ra nạn tham ô, lãng phí”. Trong bài viết Người đã chỉ ra những biểu hiện, nguyên nhân, biện pháp khắc phục của Nạn giấy tờ. Ở các bộ từ Trung ương đến cơ quan các xã, đặc biệt như các Bộ Tài Chính, Canh Nông, Nội Vụ…
Chính nạn giấy tờ đã làm hỏng tác phong, tư tưởng cán bộ, khiến cán bộ xa thời công tác thực tế, hiệu quả không thiết thực; làm hao công, tốn của của nhân dân; là hiện tượng tai hại của bệnh quan liêu, nguồn gốc của tham ô, lãng phí. Người yêu cầu cán bộ phải thi đua tiễu trừ triệt để bệnh giấy tờ, đó là cách để thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, đạo đức của người cán bộ cách mạng.
Hiện nay, lời dạy ấy càng mang tính thời sự sâu sắc. Vận dụng tư tưởng của Người vào quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Việt Nam pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, cả hệ thống chính trị và trong quân đội đang đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm đẩy nhanh hiệu quả công việc, tranh quan liêu, hình thức
Xuất phát từ yêu cầu cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, phải đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Quân đội ta bên cạnh nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc còn tích cực tham gia xây dựng kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật, nên phải tích cực bài trừ bệnh giấy tờ, thủ tục hành chính rườm rà, cán bộ chỉ huy gần gũi bộ đội, bộ đội gần gũi dân, tích cực làm việc thực tế, thiết thực, hăng hái thi đua xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đây cũng là một trong những nội dung cải cách hành chính của Quân đội
Ngày 7 tháng 3 năm 1960
“Phải đi đúng đường lối quần chúng, liên hệ mật thiết với quần chúng, dựa vào lực lượng quần chúng. Quần chúng thông suốt về phương châm, phương pháp của Đảng và Chính phủ thì nhất định sẽ làm được và làm tốt”[64]
Ngày 7 tháng 3 năm 1960, phát biểu tại Hội nghị Tổng kết công tác Thủy lợi năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “… phải đi đúng đường lối quần chúng, liên hệ mật thiết với quần chúng, dựa vào lực lượng quần chúng. Quần chúng thông suốt về phương châm, phương pháp của Đảng và Chính phủ thì nhất định sẽ làm được và làm tốt”.
Bài nói của Người được đăng tải trên báo Nhân dân, số 2182 ra ngày 9 tháng 3 năm 1960. Người đánh giá cao những kết quả về công tác thủy lợi mà cán bộ và nhân dân ta đạt được trong những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội sau chiến tranh. Người tin tưởng rằng nhân dân ta nếu có cố gắng sẽ nhất định cải tạo tự nhiên, “nhân định thắng thiên”; đồng thời căn dặn cán bộ phải đi đúng đường lối quần chúng, liên hệ mật thiết với quần chúng, dựa vào quần chúng để phát triển kinh tế. Lời của Bác tuy ngắn gọn nhưng mang giá trị tư tưởng cao, tính giáo dục lớn, không chỉ bó hẹp ở công tác thủy lợi mà trên mọi mặt công tác nói chung, phải biết lấy dân làm gốc, tin ở dân, gần gũi dân, biết dựa vào dân. Chính quần chúng nhân dân là lực lượng cách mạng đông đảo nhất, trực tiếp thực hiện đường lối cách mạng, biến đường lối cách mạng của Đảng thành hiện thực.
Vận dụng lời dạy của Bác trong quá trình đổi mới hiện nay, Đảng ta tiếp tục phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, biết dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân để vượt qua khó khăn, đưa đất nước đi vào ổn định và phát triển. Những thành tựu đất nước đạt được qua 30 năm đổi mới là minh chứng rõ ràng của sức mạnh quần chúng nhân dân. Quá trình đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có nhân dân tham gia, nhân dân đồng tình hưởng ứng để tạo thành một sức mạnh tổng hợp của sự đoàn kết toàn Đảng, toàn dân vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong quân đội, từ thực tiễn xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng đã khẳng định đoàn kết quân dân là một trong những nguồn gốc quan trọng đối với việc củng cố, tăng cường sức mạnh của Quân đội và “Bộ đội Cụ Hồ”. Đây là một vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng trong xây dựng, củng cố, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội; đồng thời, còn là một trong những bài học kinh nghiệm quý giá được rút ra từ thực tiễn xây dựng quân đội ta, không chỉ có ý nghĩa, giá trị trong lịch sử, mà còn được vận dụng trong củng cố, tăng cường sức mạnh chiến đấu của quân đội trong điều kiện mới.
Ngày 8 tháng 3 năm 1952
“Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”[65]
Sinh thời Hồ Chủ tịch luôn quan tâm và đánh giá cao vị trí vai trò của phụ nữ trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Ngày 8 tháng 3 năm 1952, trong thư gửi phụ nữ Việt Nam nhân dịp kỷ niệm Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế Phụ nữ, Người nhấn mạnh: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”. Bức thư ấy, được đăng tải toàn văn trên báo Nhân Dân, số 49, ngày 13-3-1952. Nội dung thư đã nêu bật vai trò to lớn của phụ nữ trong cuộc kháng chiến của toàn dân tộc, các bà, các mẹ, các chị đã xung phong đi dân công, giúp thương binh, hòa lòng yêu nước, yêu con, yêu chiến sĩ thành mối yêu thương không bờ bến. Người yêu cầu các cấp lãnh đạo đi sát hơn, thiết thực hơn với phong trào phụ nữ để phong trào ấy chắc hơn, rộng hơn, mạnh hơn. Đồng thời người giao nhiệm vụ cho phụ nữ trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ: phải thắt chặt đoàn kết thi đua tăng gia sản xuất, tiết kiệm, tích cực tham gia chính quyền, giúp đỡ bộ đội bảo vệ nhi đồng…
Khắc ghi lời dạy của Người, hiện nay, đội ngũ cán bộ nữ luôn được tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước. Phong trào phụ nữ đã có bước phát triển, các tầng lớp phụ nữ tỏ rõ có năng lực, phẩm chất, nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn kết, phát huy tiềm năng, sức sáng tạo trong học tập, lao động sản xuất và công tác, đạt những thành tích xuất sắc. Đội ngũ cán bộ nữ đã có bước trưởng thành rõ rệt. Trong các cấp uỷ đảng và ở các vị trí lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở đều có cán bộ nữ tham gia.
Trong Quân đội, phụ nữ luôn nhận thức được vai trò trách nhiệm của mình: Họ là những người chiến sĩ, “Bộ đội Cụ Hồ”, là người mẹ tảo tần, người vợ đảm đang, người vun vén dựng xây tổ ấm gia đình. Nhiều người trong số họ là những nhà khoa học, những vị lãnh đạo tài năng; đó là những người lính vững tay súng bảo vệ Tổ quốc, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày 9 tháng 3 năm 1947
“Trên đống xương máu, trên đống tro tàn, thanh niên ta, con cháu ta, sẽ xây dựng một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”[66]
Ngày 9 tháng 3 năm 1947, trong buổi tiếp và trả lời phỏng vấn phóng viên, khi bình luận về lời tuyên bố của Thủ tướng Pháp Ramađiê (Ramadier) (6-3-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ ý tiếc rằng Chính phủ Pháp đã lật lọng, một mặt thì nói “nước Pháp không phản đối nguyện vọng thống nhất của người Việt Nam”, nhưng mặt khác lại cố sức dùng vũ lực với đồng bào ta. Trước hành động đó, thay mặt quốc dân, đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu chiến tranh kéo dài, thì khối Liên hiệp Pháp cũng hỏng, lợi quyền Pháp ở Á Đông cũng mất, nước ta sẽ bị tàn phá tiêu điều. Nhưng dù tiêu điều đến đâu, non nước này vẫn là non nước Việt Nam. Trên đống xương máu, trên đống tro tàn, thanh niên ta, con cháu ta, sẽ xây dựng một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”.
Tuyên bố trên của Người đã thể hiện lòng tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến dù cuộc chiến đấu đó có đầy gian lao, thử thách, đầy hy sinh, mất mát, nhưng sau ngày chiến thắng sẽ xây dựng nước Việt Nam độc lập cường thịnh. Tuyên bố của Người cũng thể hiện ý chí sắt đã quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc ViệtNam. Lời của Người đã thể hiện sự tin tưởng tinh thần đấu tranh cách mạng của thế hệ trẻ nước nhà, thôi thúc lớp lớp các thế hệ người Việt Nam kiên quyết đứng lên đánh đuổi kẻ ngoại xâm, giành hoàn toàn độc lập, tự do cho dân tộc, tạo tiền đề đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, lời dạy của Bác là nguồn động lực tinh thần to lớn để phát huy được sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời của Tổ quốc. Đảng, Nhà nước và Nhân dân luôn nêu cao ý chí tự lực, tự cường, tinh thần độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn vượt qua mọi thách thức, khắc phục mọi khó khăn, tận dụng cơ hội, tranh thủ thời cơ đưa đất nước tiếp tục tiến lên.
Ngày 10 tháng 3 năm 1946
“Chúng ta cần phải giữ gìn giọt máu của đồng bào để xây đắp tương lai của Tổ quốc. Sự kiến thiết, sự tranh đấu chưa kết thúc, tinh thần hăng hái của đồng bào sẽ không bao giờ phải e là không có cơ hội hành động nữa”[67]
Ngày 10 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào Nam Bộ, các chiến sĩ ở tiền tuyến và Ủy ban Hành chính Nam Bộ để thông báo về việc chính phủ đã ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3, được đăng tải trên báo Cứu quốc số 182, ra ngày 10 tháng 3 năm 1946. Trong thư, Người kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của những người đã đấu tranh cho nước nhà và gửi lời chào thân ái đến đồng bào miền Nam; nhấn mạnh Hiệp định có được là nhờ sự đấu tranh anh dũng của tất cả đồng bào ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và chiến sĩ các mặt trận từ những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến (9/1945 – 3/1946). Người căn dặn: “Chúng ta cần phải giữ gìn giọt máu của đồng bào để xây đắp tương lai của Tổ quốc. Sự kiến thiết, sự tranh đấu chưa kết thúc, tinh thần hăng hái của đồng bào sẽ không bao giờ phải e là không có cơ hội hành động nữa”.
Những lời dạy của Người có tác dụng khích lệ tinh thần to lớn với không chỉ với đồng bào miềnNammà còn cả đồng bào, chiến sĩ cả nước. Và đây cũng là lời căn dặn cán bộ phải bảo vệ nhân dân, bồi dưỡng sức dân để tiến hành cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ”.
Ngày nay, đất nước đã hòa bình, đang trong quá trình đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội, lời dạy của Người vẫn nguyên giá trị, Đảng, Nhà nước, Quân đội và Nhân dân nêu cao bồi dưỡng sức dân, phát huy nội lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Quân đội nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là đội quân “Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” luôn nêu cao Lời thề thứ chín, xây dựng mối quan hệ khăng khít với nhân dân, tạo nên sức mạnh để hoàn thành nhiệm vụ trong mọi giai đoạn cách mạng; là động lực tinh thần để xây dựng thành công Quân đội nhân dân Việt Nam chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Ngày 11 tháng 3 năm 1960
“Là chủ của tương lai, thanh niên không thể không có lý tưởng cao cả. Vì vậy thanh niên phải có cuộc sống chính trị tích cực và cách mạng”[68].
Câu trích trên là một phần nội dung trả lời phỏng vấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho Máccôm Samông (Malcolm Salmon) phóng viên Đông Nam Á của báo Australia Tribune và báo Guardian. Khi được hỏi: “Những hoạt động của các chính khách ở nhiều nước thường không cổ vũ gì lớp thanh niên muốn có một cuộc đời hoạt động chính trị. Xin Chủ tịch đặc biệt cho những độc giả thanh niên của chúng tôi biết ý nghĩa và giá trị của một cuộc đời hoạt động chính trị, cách mạng”, Người trả lời: “Tương lai thuộc về thanh niên. Tương lai là cách mạng luôn luôn tiến lên. Là chủ của tương lai, thanh niên không thể không có lý tưởng cao cả. Vì vậy thanh niên phải có cuộc sống chính trị tích cực và cách mạng”.
Qua câu hỏi và nội dung trả lời của Bác, chúng ta thấy Người nhìn nhận, đánh giá rất cao vai trò, tiềm năng của thanh niên nói chung, thanh niên Việt Nam nói riêng, nhất là trong bối cảnh đất nước đang có chiến tranh, bị chia cắt hai miền Nam – Bắc. Trong hoàn cảnh ấy, tương lai của đất nước Việt Nam là phải thống nhất hòa bình và lý tưởng cao cả của thanh niên là phải thấu hiểu nỗi đau non sông chia cắt, phải có hành động cách mạng thiết thực đóng góp cho sự nghiệp xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lớp lớp thanh niên trên cả hai miền Nam – Bắc đi vào cuộc đấu tranh cách mạng dưới ngọn cờ lý tưởng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với khí thế thấm đẫm tinh thần của sức trẻ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”, thể hiện quyết tâm cao độ giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà. Một bộ phận đông đảo thanh niên trở thành “Bộ đội Cụ Hồ”, trực tiếp chiến đấu với quân thù, lập những chiến công oanh liệt, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân hoàn thành sự nghiệp vẻ vang chống Mỹ, cứu nước.
Hiện nay, câu nói của Hồ Chí Minh trên đây vẫn nguyên giá trị. Tuổi trẻ – thanh niên Quân đội cần phải tiếp tục gương mẫu học tập, “rèn đức, luyện tài”, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, với Tổ quốc; luôn có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, làm chủ bản thân, làm chủ khoa học kỹ thuật, vũ khí trang bị, quyết tâm bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đi đến thắng lợi.
Ngày 12 tháng 3 năm 1955
“Toàn thể đảng viên và cán bộ từ Nam đến Bắc, bất kỳ mới, cũ, bất kỳ ngành nào, bất kỳ trong quân đội hay là ở địa phương, bất kỳ ở nông thôn hay là ở thành thị, phải đoàn kết chặt chẽ, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của mình; phải thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ”[69].
Đoạn trích trên là một phần nội dung bài phát biểu Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phiên Bế mạc Hội nghị lần thứ bảy (khóa II) mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 12 tháng 3 năm 1955. Hội nghị diễn ra trong bối cảnh “nước ta tạm thời chia ra hai miền, miền Bắc chưa củng cố, miền Nam đang ở trong tình trạng khó khăn, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tìm mọi cách phá hoại Hiệp định Giơnevơ, chúng gây ra nạn di cư, ta thì gặp nạn đói kém, Miên và Lào gặp khó khăn, tình hình thế giới gay go”. Do vậy, yêu cầu đặt ra lúc này là phải đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình. “…Toàn thể đảng viên và cán bộ từ Nam đến Bắc, bất kỳ mới, cũ, bất kỳ ngành nào, bất kỳ trong quân đội hay là ở địa phương, bất kỳ ở nông thôn hay là ở thành thị, phải đoàn kết chặt chẽ, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của mình; phải thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ”. Vấn đề xây dựng, củng cố mối đoàn kết thống nhất trong Đảng là một nguyên tắc bất biến. Khi nào Đảng ta thực hiện tốt việc đoàn kết, thống nhất nội bộ, thì khi đó có đường lối, quan điểm lãnh đạo cách mạng đúng đắn, sáng suốt.
Đặt trong bối cảnh tình hình xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), nội dung phát biểu bế mạc của Bác Hồ tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy vẫn mang tính thời sự, nóng hổi. Trên thực tế, Đảng ta luôn kiên định thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng và nhân dân, Quân đội luôn nêu cao tinh thần “đoàn kết, thống nhất” trong nội bộ và với nhân dân; đó là cơ sở nền tảng để Quân đội làm tròn nhiệm vụ chiến lược bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Trong tình hình hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn đoàn kết thành một khối vững chắc thì nhất định sẽ vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Mục tiêu đó cũng là điều Bác Hồ hằng mong muốn cho đất nước, dân tộc ViệtNam.
Ngày 13 tháng 3 năm 1960
“Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ”[70]
Câu nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh Thái Nguyên vào ngày 13 tháng 3 năm 1960, trong thời điểm miền Bắc đang tiến hành khôi phục, cải tạo và bước đầu phát triển nền kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa, quân và dân miền Nam đang đẩy mạnh đấu tranh chính trị, tiến tới phát động cao trào cách mạng mới. Quan điểm trên đây của Người cùng với đường lối, chủ trương đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã trở thành định hướng, phương châm, mục tiêu hành động của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng miền Bắc theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, củng cố, tăng cường sức mạnh của hậu phương lớn làm tròn nghĩa vụ đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Dưới ánh sáng của Đại hội III, quân và dân ta thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, hướng tới mục tiêu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; sự nghiệp đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chế độ xã hội mới, giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh xét đến cùng là vì hạnh phúc, vì sự phát triển toàn diện của con người. Ngược lại, con người là lực lượng chính của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất và là chủ thể sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Và 15 năm sau, quân và dân ta đã hoàn thành sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (4-1975), mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc – kỷ nguyên độc lập, hòa bình, thống nhất cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay có nhiều chuyển biến mau chóng, phức tạp, ý nghĩa của câu nói “Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ” vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là mục tiêu lý tưởng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta hướng tới.
Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo luôn quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về rèn đức, luyện tài, phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân; phát huy tinh thần độc lập tự chủ, ý thức tự lực, tự cường, cần kiệm xây dựng đất nước, xây dựng quân đội; có lối sống trong sạch lành mạnh, có văn hóa, ham học tập, cầu tiến bộ, có ý thức vươn lên làm chủ khoa học kỹ thuật quân sự, có tri thức về khoa học xã hội và nhân văn, trung thực, khiêm tốn, giản dị.
Ngày 14 tháng 3 năm 1954
“Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang. Các chú vừa được chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự và đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật, kỹ thuật. Nhiều đơn vị đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới”.
Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Thư gửi cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ”[71]. Lời kêu gọi được đăng trên báo Quân đội nhân dân, xuất bản tại mặt trận, số 131, ngày 14 tháng 3 năm 1954, vào thời điểm chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ vừa mở màn (ngày 13 tháng 3).
Ngay trong trận mở màn, quân ta đã giành được thắng lợi quan trọng, với đòn tiến công tiêu diệt cứ điểm phòng thủ vòng ngoài Him Lam, đồng thời phát triển sâu vào trung tâm đề kháng của quân Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Lời kêu gọi có tác động mạnh mẽ, động viên kịp thời tinh thần của các cán bộ, chiến sĩ để họ khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, tiến lên phá vỡ hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, hoàn thành mục tiêu độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc.
Hiện nay, đất nước ta đã hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối, cả nước vững bước đi lên hội nhập sâu rộng với nền kinh tế, chính trị thế giới, thì ý nghĩa lời kêu gọi của Bác vẫn còn nguyên giá trị, nhắc nhở mọi cán bộ, chiến sĩ dù trên bất kì cương vị nào, công việc gì phải luôn quán triệt tinh thần “thắng không kiêu, bại không nản”, không ngừng phát huy thành công, nỗ lực phấn đấu, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao, góp công, góp sức cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng và Bác Hồ tổ chức, lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, là một quân đội cách mạng, mang trong mình bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc luôn khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh; thường xuyên chăm lo, xây dựng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, chú trọng công tác tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện suy thoái về chính trị tư tưởng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, chấp hành mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Ngày 15 tháng 3 năm 1968
“Giặc Mỹ đã thua to, nhưng chúng vẫn ngoan cố chưa chịu từ bỏ những âm mưu tàn bạo và quỷ quyệt. Quân và dân ta đang thắng lớn, càng phải kiên quyết chiến đấu cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn”[72].
Lời khẳng định trên là một phần nội dung bức thư khen Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi quân và dân Hải Phòng nhân sự kiện quân và dân ở đây bắn rơi chiếc máy bay thứ 200 của Mỹ vào ngày 6 tháng 3 năm 1968.
Lời thư của Bác ngợi khen thành tích của quân và dân Hải Phòng cũng chính là lời ngợi khen đối với thành tích của quân và dân miền Bắc nói chung trong quá trình chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ. Trong những tháng năm đánh Mỹ, nhân dân hậu phương miền Bắc thực hiện khẩu hiệu “tay cày, tay súng”, “tay búa, tay súng”, vừa đẩy mạnh sản xuất vừa triển khai thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Địa phương nào, nhà máy xí nghiệp nào lập nhiều thành tích đều được Bác Hồ gửi thư khen ngợi, động viên, biểu dương thành tích sản xuất, chiến đấu, chi viện chiến trường miền Nam. Những bức thư khen của Bác như tiếp thêm động lực để quân và dân Hải Phòng nói riêng, quân và dân miền Bắc nói chung “ra sức thi đua với quân và dân miền Nam anh hùng, nâng cao cảnh giác, sản xuất tốt hơn nữa, chiến đấu giỏi hơn nữa, sát cánh cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc khen thưởng, biểu dương những địa phương, tập thể, đơn vị, cá nhân có thành tích trong lao động sản xuất, học tập, công tác nhằm kịp thời động viên, khích lệ tinh thần thi đua, nhân rộng điển hình tiên tiến, làm cho mọi người nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa, giá trị của công tác động viên như lúc sinh thời Bác luôn dành sự quan tâm đặc biệt. Những gương “người tốt, việc tốt” được tập hợp, in thành sách, tạo ra tủ sách “người tốt, việc tốt”. Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, chúng ta cần hiểu đúng, hiểu rõ, có hành động thiết thực quan tâm, chăm lo những tập thể, cá nhân lập nhiều thành tích; tạo thêm động lực, xây dựng điển hình để nhân rộng “giá trị” của “người tốt, việc tốt”
Quân đội nhân dân ViệtNamđược Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện; là một tập thể, một môi trường đặc biệt để mỗi người phấn đấu, rèn luyện, trưởng thành. Với chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân sản xuất, đội quân công tác, Quân đội đã lập nhiều chiến công oanh liệt, cùng toàn dân đánh thắng “hai đế quốc to” (thực dân Pháp và đế quốc Mỹ), bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong chiến đấu, công tác, hàng nghìn đơn vị, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã lập chiến công, thành tích đặc biệt xuất sắc, được Đảng, Nhà nước phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và các phần thưởng cao quý khác… Những tập gương ấy luôn sống động, là niềm tự hào đối với mỗi đơn vị, mỗi cán bộ, chiến sĩ. Trong điều kiện đất nước hòa bình, dưới tác động của tình hình chính trị, xã hội phức tạp hiện nay, Quân đội luôn quan tâm xây dựng phong trào thi đua trong học tập, rèn luyện, huấn luyện, làm chủ khoa học công nghệ, vũ khí trang bị… Đó là một động lực để Quân đội luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, làm tròn trọng trách bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Ngày 16 tháng 3 năm 1946
Dân ta yêu tự do, độc lập, trọng hòa bình, tín nghĩa.
Ngày 16 tháng 3 năm 1946, tại Hà Nội, trước sự chứng kiến của đại diện các nước Trung Hoa dân quốc, Mỹ và Anh, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Đảng, Nhà nước và nhân dân ký bản Hiệp định sơ bộ với Chính phủ Cộng hòa Pháp. Theo đó, Chính phủ Cộng hòa Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội, tài chính của riêng mình và là một phần tử trong Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp; Việt Nam chấp nhận cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc, thay thế quân đội Trung Hoa dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội phát xít Nhật Bản, sau đó sẽ phải rút hết trong 5 năm. Sự chấp nhận và nhân nhượng có nguyên tắc của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở một tình thế cụ thể đã làm cho cục diện quan hệ Trung Hoa dân quốc – Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Cộng hòa Pháp thay đổi. Nhân dân ViệtNam có thêm thời gian hòa bình để chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến mà theo nhận định của Đảng và Nhà nước thì tất yếu sẽ xảy ra.
Mặc dù bản Hiệp định sơ bộ tạo cơ sở pháp lý quốc tế cho cuộc đấu tranh ngoại giao của Việt Nam, nhưng dư luận các đảng phái quốc gia và thân nước ngoài như Việt Cách, Việt Quốc vẫn lên tiếng phản đối, một bộ phận nhân dân còn băn khoăn. Trước tình hình đó, ngày 16 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Lời kêu gọi nhân dân thi hành đúng Hiệp định sơ bộ Việt – Pháp với lòng mong muốn: “Quốc dân giữ lòng kiên quyết nhưng bình tĩnh, các báo thì bình luận một cách chính đáng, những lời lẽ nên cân nhắc… Chúng ta phải tỏ cho họ biết rằng “dân ta yêu tự do, độc lập, trọng hòa bình, tín nghĩa””[73]. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày vắn tắt lập trường, đường lối chính trị của Đảng, Chính phủ trước đồng bào cả nước, và động viên đồng bào cần phải biết chịu đựng hy sinh để mưu tính sự nghiệp lớn.
Trong thời điểm ngặt nghèo của dân tộc, việc ký Hiệp định sơ bộ là một quyết định sáng suốt, một mẫu mực sách lược trong đấu tranh ngoại giao, tận dụng thời cơ, nhân nhượng có nguyên tắc của Đảng và Nhà nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
Ngày nay, đất nước ViệtNamđã hoàn toàn độc lập, thống nhất và vững bước trên con đường đổi mới và hội nhập. Lịch sử quan hệ Việt – Pháp sau những thăng trầm, quanh co của lịch sử đã được khép lại, và mở ra một chương mới với tình hữu nghị, hợp tác và phát triển. Những bài học thực tiễn trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước là cơ sở vững chắc để một dân tộc luôn yêu tự do, hòa bình và công lý, cùng nhau kiên trì, đồng tâm bảo vệ nền độc lập, thống nhất quốc gia, cũng như trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ngày 17 tháng 3 năm 1948
Muốn chống tham ô, lãng phí, phải chống bệnh quan liêu. Nhưng tiến hành phải có chuẩn bị, có kế hoạch, có lãnh đạo, có trọng tâm.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định quan liêu là một trong những căn bệnh rất nguy hại đến đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Theo Bác Hồ “Quan liêu là xa rời quần chúng, không đi sâu sát, không hiểu lai lịch, tư tưởng và công tác của cán bộ mình. Không lắng nghe ý kiến của quần chúng, sợ phê bình và tự phê bình”. Trong bài nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ đảng viên tại buổi phát động phong trào sản xuất và tiết kiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Muốn chống tham ô, lãng phí, phải chống bệnh quan liêu. Nhưng tiến hành phải có chuẩn bị, có kế hoạch, có lãnh đạo, có trọng tâm”[74]. Những cán bộ mắc phải bệnh quan liêu thì “có mắt mà không thấu suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí”. Như vậy bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Ở đâu có bệnh quan liêu nặng thì ở đó tham ô, lãng phí nhiều. Quan liêu tiếp tay cho cán bộ yếu kém, thoả hiệp với những kẻ xấu làm tổn hại tới sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, làm băng hoại đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Quan liêu, mệnh lệnh vô hình trở thành một bức tường ngăn cách, tách rời Đảng, Chính phủ với nhân dân, tách rời lợi ích của nhân dân với chính sách của Đảng và Nhà nước.
Để chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu có hiệu quả, theo Người, tiến hành phải có chuẩn bị, có kế hoạch, có lãnh đạo, có trọng tâm. Trước hết, cần làm cho mọi người thấy rõ tham ô, lãng phí là trọng tội, là có lỗi với nhân dân, với Nhà nước. Quan liêu là nguồn gốc sinh ra tham nhũng và lãng phí, cần phải được bài trừ. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham những, lãng phí, quan liêu phải huy động sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân được tổ chức tốt, dưới sự chỉ đạo của các cơ quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”. Ngoài ra phải tuyên truyền giáo dục, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ trong việc quản lý kinh tế, tài chính; chấn chỉnh công tác tổ chức – cán bộ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước. Có chính sách đúng đắn, lựa chọn cán bộ tốt, với tổ chức, quản lý tốt là những giải pháp hiệu quả trong việc chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Ngày 18 tháng 3 năm 1923
“Cần phải làm thế nào để cho công nhân da đen và da vàng cũng hiểu rằng: Kẻ thù duy nhất của họ nằm ngay trong bản thân cái chế độ này, chế độ đang dẫn đến một chế độ nô lệ tinh vi hơn, nặng nề hơn, và vô nhân đạo hơn chế độ trước đây. Và chỉ với sự giúp đỡ của những người anh em bị áp bức của mình ở các nước châu Âu, họ mới sẽ có thể tự giải phóng được mình”.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều cống hiến cả trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Một trong những cống hiến lớn lao của Người là tạo dựng được tình đoàn kết giữa các dân tộc, các giai cấp bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Theo Người, muốn giải phóng dân tộc, giải phóng con người, thì giai cấp cần lao toàn thế giới phải đoàn kết đấu tranh, đánh đổ giai cấp bóc lột, thống trị.
Trong bài báo nói về cuộc bạo động của công nhân thành phố Porto – Nouvo ở Dahommey (thuộc địa của Pháp ở Tây Phi), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Cần phải làm thế nào để cho công nhân da đen và da vàng cũng hiểu rằng: Kẻ thù duy nhất của họ nằm ngay trong bản thân cái chế độ này, chế độ đang dẫn đến một chế độ nô lệ tinh vi hơn, nặng nề hơn, và vô nhân đạo hơn chế độ trước đây. Và chỉ với sự giúp đỡ của những người anh em bị áp bức của mình ở các nước châu Âu, họ mới sẽ có thể tự giải phóng được mình”[75].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng vô sản thế giới muốn thành công đòi hỏi giai cấp vô sản, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế phải đoàn kết thống nhất, phải gắn bó thân thiết như anh em một nhà. Với Người, đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đoàn kết gắn bó trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em là cơ sở nền tảng, là nhân tố quan trọng bậc nhất, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Và để xây dựng, củng cố sự nghiệp đoàn kết cao cả ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên quyết đấu tranh chống những khuynh hướng tư tưởng sai lầm, lệch lạc như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại hiện đại…
Hiện nay, trước hoàn cảnh lịch sử mới, mặc dù quan hệ giữa Việt Nam với các nước có nhiều phát triển, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vẫn là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng cộng sản Việt Nam xác định chủ trương: “Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới”[76]. Đồng thời, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết khu vực, đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia cũng vẫn là cơ sở lý luận, phương pháp luận để Đảng xác định: “Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước Asean, các nước châu Á – Thái Bình Dương… Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược”[77].
Ngày 19 tháng 3 năm 1967
“Đặc công tức là công tác đặc biệt, là vinh dự đặc biệt, cần phải có cố gắng đặc biệt. Các chiến sĩ đặc công được tin tưởng đặc biệt… Bất kỳ nhiệm vụ gì, bất kỳ nhiệm vụ đặc biệt nào cũng phải hoàn thành và hoàn thành cho tốt… Bất kỳ khó khăn đặc biệt nào cũng phải vượt qua, cũng phải khắc phục cho kỳ được..”.
Ngày 19 tháng 3 năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm Trung đoàn 246 thuộc Lữ đoàn 305 tại Trường Cán bộ Dân tộc Trung ương, nay thuộc phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Tại đây, sau khi tham dự buổi diễn tập kỹ – chiến thuật của cán bộ, chiến sĩ, Bác Hồ ân cần căn dặn: “Đặc công tức là công tác đặc biệt, là vinh dự đặc biệt, cần phải có cố gắng đặc biệt. Các chiến sĩ đặc công được tin tưởng đặc biệt… Bất kỳ nhiệm vụ gì, bất kỳ nhiệm vụ đặc biệt nào cũng phải hoàn thành và hoàn thành cho tốt… Bất kỳ khó khăn đặc biệt nào cũng phải vượt qua, cũng phải khắc phục cho kỳ được…”[78].
Lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành phương châm, tư tưởng chỉ đạo hành động của Binh chủng Đặc công trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành. Bằng trí thông minh, lòng dũng cảm, không ngại hy sinh, gian khổ, sự đoàn kết, nỗ lực phấn đấu liên tục của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, Binh chủng Đặc công đã không ngừng lớn mạnh. Từ 9 tiểu đoàn lúc mới thành lập, đến nay, Đặc công Việt Nam phát triển vượt bậc, bao gồm 3 thành phần là đặc công bộ, đặc công nước và đặc công biệt động. Với cách đánh “công đồn đặc biệt”, bộ đội Đặc công đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ghi nhận những chiến công và thành tích đặc biệt xuất sắc đạt được trong xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Binh chủng Đặc công đã được Đảng, Nhà nước, Quân đội tặng nhiều phần thưởng cao quý, trong đó hai lần được phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”. Đặc biệt, Binh chủng Đặc công được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ViệtNamtặng 16 chữ vàng: “Đặc biệt tinh nhuệ – Anh dũng tuyệt vời – Mưu trí táo bạo – Đánh hiểm thắng lớn”.
Trong giai đoạn cách mạng mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh Lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã và đang tạo những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ; phòng, tránh và khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa… góp phần vào sự nghiệp xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới.
Ngày 20 tháng 3 năm 1958
“Khi thành công càng phải khiêm tốn, chớ có tự kiêu tự đại”.
Ngày 20 tháng 3 năm 1958, tại Hội nghị cao cấp toàn quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu hai nhiệm vụ trước mắt của quân đội trong tình hình mới. Thứ nhất, xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu. Thứ hai, tích cực tham gia sản xuất để góp phần xây dựng kinh tế, xây dựng và củng cố địa phương. Để chỉ rõ những biện pháp thực hiện hai nhiệm vụ trên, Người đặc biệt yêu cầu các cán bộ quân đội phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu trong mọi việc, tăng cường đoàn kết trong cán bộ, giữa cán bộ với chiến sĩ, giữa cán bộ với bộ đội Bắc – Nam, giữa bộ đội chiến đấu và bộ đội sản xuất, giữa quân và dân. Đồng thời, Bác Hồ cũng nhắc nhở quân đội ta “khi thành công càng phải khiêm tốn, chớ có tự kiêu tự đại”[79].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Tự kiêu là mù quáng, chỉ trông thấy những việc mình tưởng mình làm được, những điều mình tưởng mình biết hết; mà không trông thấy những điều mình không biết, những việc mình chưa làm được. Tự kiêu, tự đại là thoái bộ. Vì tự mãn tự túc, không cố gắng học hỏi thêm. Không theo kịp sự tiến bộ của thời đại. Tự mình ngăn trở sự tiến bộ của mình”[80]. Từ những hệ quả, di hại của căn bệnh nêu trên, Người đặc biệt đề cao các biện pháp để khắc phục, phòng tránh. Bác Hồ yêu cầu “Mỗi một đồng chí ta phải có thái độ khiêm tốn, càng cựu, càng giỏi, càng phải khiêm tốn, phải có lòng cầu tiến bộ”[81]. Theo quan điểm của Người, khiêm tốn sẽ có sự tỉnh táo, để nhận thức được chân lý một cách đúng đắn, khách quan; đồng thời có được sự ủng hộ, tin tưởng, giúp đỡ chân thành của mọi người, cũng như đem lại cho ta nhiều khả năng cả về trí lực và vật lực để đạt đến sự thành công. Để có được đức tính khiêm tốn, mỗi cán bộ, chiến sĩ đảng viên phải luôn luôn học hỏi, không ngừng phấn đấu vươn lên, không ngừng hoàn thiện nhân cách. Đó cũng là cơ sở để đoàn kết, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Khiêm tốn là biểu hiện của việc tôn trọng con người, tôn trọng quần chúng.
Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ phải thực sự khiêm tốn, cầu thị và tôn trọng mọi người. Bác Hồ cũng chỉ rõ nếu làm ngược lại sẽ dẫn đến sự tự cao tự đại, khoe khoang, tự coi mình là “trung tâm của vũ trụ”, mà hậu quả có thể dẫn đến kiêu ngạo, tự phụ, hách dịch, xem thường người khác… Đó cũng là những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng đạo đức, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa được chỉ rõ trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4 Khóa XI. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cần tìm hiểu, nghiên cứu nhiều hơn nữa về sự khiêm tốn và tự suy ngẫm rút ra cho mình các bài học từ những lời dạy quý báu cũng như tấm gương đạo đức và nhân cách Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đó, mỗi người không ngừng tự hoàn thiện bản thân, xứng đáng với vai trò và tư cách của người cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng.
Ngày 21 tháng 3 năm 1961
“Cán bộ phải tuyệt đối tránh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, phải hết sức chống bệnh hình thức, chống lãng phí, tham ô”1.
Lời nói trên, Bác Hồ nói trong buổi gặp gỡ đồng bào các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, ngày 21 tháng 3 năm 1961, trong hoàn cảnh miền Bắc nước ta đang bắt tay vào việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, vừa xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tiếp tục cải tạo chủ nghĩa xã hội và củng cố quan hệ sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân về mọi mặt; đồng thời, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh giữ gìn trật tự an ninh bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần thiết thực vào thực hiện sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Bác mong muốn và nhắc nhở cán bộ dù ở cấp nào, ngành nào đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân, tất cả cán bộ phải một lòng, một dạ phục vụ nhân dân; phải hết sức quan tâm đến đời sống nhân dân; thực hiện theo đúng chính sách của Đảng; đồng thời, tuyệt đối tránh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, phải hết sức chống bệnh hình thức, chống lãng phí, tham ô. Do đó mà lãnh đạo phải dân chủ, thiết thực, cụ thể và toàn diện. Phải tránh cách lãnh đạo đại khái, phiến diện chung chung. Trong mọi công việc đảng viên và đoàn viên thanh niên phải làm gương mẫu, để lôi cuốn nhân dân cùng tiến bộ.
Hiện nay tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, các thế lực thù địch đang ra sức lôi kéo, thực hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; những tác động của mặt trái kinh tế thị trường đã làm thay đổi nấc thang giá trị đạo đức cách mạng. Song giá trị lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Cán bộ phải tuyệt đối tránh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, phải hết sức chống bệnh hình thức, chống lãng phí, tham ô”, được Đảng ta quán triệt, thực hiện nghiêm túc và phát huy mạnh mẽ trong công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ ở tất cả các cấp, các ngành và cả trong sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vây, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ phải luôn coi trọng việc khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức trong sáng, kiến thức chuyên môn, trách nhiệm với công việc là vấn đề quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết.
Là một bộ phận cán bộ trọng yếu của Đảng trong quân đội, đội ngũ cán quân đội luôn thấm nhuần lời dạy của Bác, dù trong điều kiện hoàn cảnh nào đội ngũ cán bộ trong quân đội đều nhận thức rõ điều đó, luôn giữ vững lập trường quan điểm, phẩm chất đạo đức cách mạng, kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu, tích cực tự giác nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Việc làm đó, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước giai đoạn hiện nay.
Ngày 22 tháng 3 năm 1955
“Quốc hội ta do toàn dân tự do bầu cử, là đại biểu chân chính của nhân dân cả nước từ Bắc đến Nam”1.
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Bác nói vào ngày 22 tháng 3 năm 1955, khi Ngô Đình Diệm được sự hậu thuẫn của Mỹ đang ra sức phá hoại việc thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ và lập nên “Quốc hội lâm thời”, gồm 247 người chủ yếu không thông qua bầu cử ở miền Nam Việt Nam. Từ đó, Bác đã làm rõ về Quốc hội ta, được thành lập trong những năm chiến tranh chống xâm lược, do toàn dân tự do bầu cử, là đại biểu chân chính của nhân dân cả nước từ Bắc đến Nam. Quốc hội ta đã sát cánh cùng với Chính phủ và nhân dân chịu đựng gian khổ, vượt mọi khó khăn, dũng cảm hy sinh, đưa kháng chiến đến hoàn toàn thắng lợi. Nay trong hoàn cảnh hòa bình, trước tình hình mới và nhiệm vụ mới, Quốc hội ta lại cùng nhân dân và Chính phủ khắc phục những khó khăn, phát triển những thuận lợi mới, để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Là đại biểu chân chính của nhân dân, Quốc hội thực hiện quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện quyền lực của nhân dân. Chỉ có Quốc hội mới có quyền thể chế ý chí, nguyện vọng của nhân dân thành luật, thành các quy định chung mang tính bắt buộc phải tuân thủ đối với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Hiến pháp giao cho Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong những dịp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đều hăng hái tích cực tham gia bầu cử, chọn lựa những người xứng đáng vào cơ quan quyền lực Nhà nước và ngày bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân thật sự là ngày hội của toàn dân.
Là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng, Tổ quốc và nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn ý thức rất rõ ý nghĩa tầm quan trọng về xây dựng Quốc hội và thực hiện Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội. Theo đó, quân đội luôn chủ động quán triệt, thực hiện nghiêm túc Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân về mục đích, ý nghĩa của cuộc Bầu cử đại biểu Quốc hội, phối hợp chặt chẽ với địa phương để tổ chức tốt bầu cử, duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, tăng cường các biện pháp bảo vệ an toàn cho bầu cử, chủ động làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị phá hoại cuộc bầu cử, góp phần thành công của bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới của cách mạng.
Ngày 23 tháng 3 năm 1956
“Nếu không hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, tự kiêu, tự đại, tự tư tự lợi, như thế là trái với chủ nghĩa Mác – Lênin”[82].
Lời nói trên của Bác được trích trong buổi nói chuyện tại Đại hội giáo dục phổ thông toàn quốc[83] vào ngày 23 tháng 3 năm 1956, trong thời điểm miền Bắc nước ta vừa bước vào hòa bình, thống nhất, xây dựng nước nhà công tác giáo dục hết sức khó khăn. Trong bối cảnh đó, có tư tưởng lo ngại rằng chủ nghĩa Mác – Lênin bó buộc tư tưởng, bó buộc giáo dục. Bác đã giải thích, làm rõ những tư tưởng lo ngại không đúng về chủ nghĩa Mác – Lênin,“Nếu không hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, tự kiêu, tự đại, tự tư tự lợi, như thế là trái với chủ nghĩa Mác – Lênin”. Chủ nghĩa Mác – Lênin soi phương hướng, đường lối cho chúng ta đi. Có phương hướng đúng thì làm việc mới đúng. Hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc, bất kỳ việc to việc nhỏ cũng nhằm mục đích ấy; đó là chủ nghĩa Mác – Lênin không có gì cao xa. Muốn phát triển giáo dục phải có kế hoạch lâu dài, phải cố gắng, phải quyết tâm thì chiến thắng được mọi khó khăn.
Thực hiện lời nói của Bác trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng để hoạch địch chủ trương, đường lối lãnh đạo đất nước, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, hết sức phụng sự nhân dân là điều cao quý nhất. Người đã nhiều lần nói, được phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng và cách mạng là cao quý hơn cả…trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Việc xác định rõ vai trò của nhân dân chính là định hướng cho sự phát triển bền vững của Đảng, Nhà nước. Tất cả mọi việc đều hướng tới lợi ích của dân, cho dân và vì dân. Chỉ khi tầng lớp nhân dân có được đời sống thực sự ấm no, hạnh phúc thì đất nước mới có được sức mạnh hùng cường, mới có thể bước tới đài vinh quang. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên công chức phòng chống biểu hiện tự kiêu, tự đại, tự tư tự lợi đều phải quyết tâm hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Nếu chúng ta nhận thức đúng sẽ mở đường cho hành động đúng và nếu nhận thức sai sẽ dẫn đến hành động sai.
Là lực lượng vũ trang nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ chí Minh: “Nếu không hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, tự kiêu, tự đại, tự tư tự lợi, như thế là trái với chủ nghĩa Mác – Lênin”, mọi cán bộ, chiến sĩ luôn nhận thức sâu sắc, nêu cao trách nhiệm, giữ vững bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, ra sức thi đua học tập và rèn luyện để trở thành người chiến sĩ xung kích trong mọi công việc, góp phần cùng nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Đảng. Đó là việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong công cuộc phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Ngày 24 tháng 3 năm 1961
“Đạo đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đạo đức cách mạng là đạo đức tập thể, nó phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân”1.
Lời nói trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tại Đại hội lần thứ III Đoàn Thanh niên Lao động ViệtNam, trong điều kiện miền Bắc nước ta đang ra sức củng có quan hệ sản xuất và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Để nhận thức đúng tình hình, tiếp thu tư tưởng tiên tiến, học tập kinh nghiệm tốt trong đấu tranh thực hiện thắng lợi cách mạng. Theo người, muốn làm tròn nhiệm vụ vẻ vang ấy, thanh niên ta cần phải thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà và phải trau dồi đạo đức cách mạng của người cách mạng, thì kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công. Để giải quyết nhiệm vụ đó phải có đội ngũ cán bộ tốt: Bởi vì, “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Đội ngũ cán bộ phải thực sự là lực lượng tiên phong về trí tuệ, về phẩm chất đạo đức, phải là những hạt giống tốt để nhân giống rộng trong xã hội và các đoàn thể. Muốn vậy phải thường xuyên giáo dục bồi dưỡng đội ngũ cán bộ về mọi mặt, mà trước hết là về đạo đức cách mạng.
Người cho rằng, đạo đức cách mạng là “cái gốc” cái căn bản của người cách mạng. Có đạo đức cách mạng mới trở thành người cán bộ tốt. Mới làm tròn vai trò người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành, tận tuỵ của nhân dân. Đạo đức cách mạng là cơ sở, nền tảng để mỗi cán bộ phấn đấu hoàn thiện mình. Bởi lẽ, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Đạo đức cách mạng không phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của cả loài người, biết đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết, trước hết, là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân, “hết lòng phụng vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Đó là cốt lỏi, là bản chất của đạo đức cách mạng, là nguyên tắc cao nhất.
Đối với quân đội ta, yêu cầu cơ bản phải thường xuyên xây dựng, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo những nội dung, tiêu chuẩn chung về đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào cũng kiên quyết làm đúng đường lối, chính sách và nghị quyết của Đảng, suốt đời phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Có lối sống trong sạch, lành mạnh, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, giàu lòng nhân ái. Đồng thời thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức và lối sống. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, lối sống suy thoái về đạo đức. Thiết thực góp phần hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, thực hiện tốt chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất.
Ngày 25 tháng 3 năm 1966
“Thanh niên ta có cố gắng, có tiến bộ và có nhiều thành tích. Nhưng chớ vì thế mà tự cao, tự đại; phải khiêm tốn, phải luôn luôn cố gắng hơn nữa, vượt mọi khó khăn, để giành lấy thành tích nhiều hơn và to lớn hơn”1
Lời nói trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tại lễ kỷ niệm lần thứ 35 ngày thành lập Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, ngày 25 tháng 3 năm 1966, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước sang giai đoạn mới. Đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện “Chiến tranh cục bộ” được tiến hành bằng lực lượng quân đội Mỹ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn; đồng thời, thực hiện cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, nhằm ngăn chặn cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà của dân tộc ta.
Lời nói của Bác là nguồn cỗ vũ động viên tinh thần to lớn cho lớp lớp thế hệ thanh niên lên đường chiến đấu, với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Các thế hệ thanh niên cùng nhân dân cả nước đã dũng cảm chiến đấu, hy sinh ra sức bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện lời dạy của Bác, thanh niên Việt Nam luôn đóng vai trò là lực lượng xung kích, nòng cốt trên nhiều mặt trận trong các nhà trường, công xưởng, xí nghiệp và ở cả trên lĩnh vực công tác nghiên cứu khoa học, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…Những diễn biến phức tạp tình hình hiện nay luôn tiềm ẩn và chứa đựng những yếu tố khó lường, thế hệ trẻ thanh niên chịu chi phối, tác động của nhiều yếu tố, cả tích cực và tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường và các tệ nạn xã hội… làm thay đổi về quan niệm nấc thang giá trị đạo đức, làm xói mòn nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp, nhằm kích động, lôi kéo, chia rẽ thanh niên. Trước những diễn biến phức tạp đó, thế hệ thanh niên Việt Nam luôn giữ vững lập trường bản lĩnh chính trị, phát huy vai trò xung kích, tiềm năng to lớn trong thực hiện nhiệm vụ trên mọi miền Tổ quốc, có nhiều thành tích tiêu biểu trong học tập, lao động và công tác nghiên cứu khoa học…, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập khu vực và quốc tế.
Là một bộ phận của thanh niên Việt Nam, thanh niên quân đội luôn có vai trò hết sức quan trọng trong trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, lớp lớp thế hệ đoàn viên, thanh niên trong quân đội đã kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc, xây đắp nên truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thanh niên quân đội luôn là lực lượng xung kích nòng cốt, xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; tích cực huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, đi đầu trong phòng, chống thiên tai; Khắc phục những khó khăn, gian khổ nơi biên giới, hải đảo, giúp nhân dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng cơ sở chính trị, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; đồng thời, luôn nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tự giác học tập, rèn luyện, phấn đấu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Ngày 26 tháng 3 năm 1964
“Sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp lâu dài và gian khổ, song nhất định thắng lợi. Mọi người chúng ta, bất kỳ ai, làm việc gì, ở cương vị nào, đều phải là những chiến sĩ dũng cảm của sự nghiệp vẻ vang ấy.”[84]
Câu nói trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong Báo cáo chính trị tại Hội nghị Chính trị đặc biệt diễn ra từ ngày 27 đến ngày 28 tháng 3 năm 1964, khi miền Bắc đã có 10 năm được hưởng hòa bình thống nhất, đang trong quá trình xây dựng chế độ mới xã hội chủ nghĩa; miền Nam đang trực tiếp đấu tranh chống đế quốc Mỹ và Chính quyền Việt Nam cộng hòa, tiếp tục sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Chính tại thời điểm này Bác đã động viên nhân dân tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn; cùng một lúc tiến hành hai cuộc cách mạng trên cả hai miền (cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam) là một việc làm hết sức khó khăn, phức tạp, lâu dài. Trong lời kêu gọi “chống Mỹ, cứu nước” tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa… nhân dân Việt Nam nhất định thắng, Mỹ nhất định thua”. Chính vì vậy, để tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và ủng hộ nhân dân miền Nam anh dũng đấu tranh bằng cả sức người, sức của, càng đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, xác định rõ thái độ, trách nhiệm, tích cực tạo ra sức mạnh to lớn để hoàn thành thắng lợi vào sự nghiệp vẻ vang ấy.
Hiện nay, sau hơn 30 năm đổi mới, bằng sự nỗ lực cố gắng, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng tự hào. Tuy nhiên, tình hình thế giới, khu vực vẫn còn diễn biến phức tạp, khó lường, tác động trực tiếp đến sự nghiệp cách mạng. Song lời dạy của Bác “Sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp lâu dài và gian khổ, song nhất định thắng lợi. Mọi người chúng ta, bất kỳ ai, làm việc gì, ở cương vị nào, đều phải là những chiến sĩ dũng cảm của sự nghiệp vẻ vang ấy”, vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục được Đảng, nhân dân ta phát huy mạnh mẽ trong sự nghiệp cách mạng mới. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn hiện nay, cần thống nhất nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta vẫn đang ở thời kỳ quá độ còn nhiều khó khăn, phức tạp và lâu dài… đòi hỏi Đảng và nhân dân ta tin tưởng tuyệt đối vào sự nghiệp cách mạng và có phương pháp, hình thức, bước đi phù hợp cho từng giai đoạn cách mạng. Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch…
Quân đội nhân dân Việt Nam luôn luôn ghi nhớ lời dạy của Bác, xác định rõ nhiệm vụ, chức năng trong sự nghiệp cách mạng, là lực lượng nòng cốt sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà nước và nhân dân. Trước yêu cầu cao của sự nghiệp cách mạng, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng, sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, đảm bảo cho Quân đội nhân dân hoàn thành tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất và các nhiệm vụ được giao, thực sự xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Ngày 27 tháng 3 năm 1946
“Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe”. Đây là câu trích của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người nói về “Sức khỏe và thể dục” trên Báo Cứu quốc: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công. Mỗi một người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe”1
Câu nói trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bài Sức khỏe và thể dục đăng trên Báo Cứu quốc, số 199, ngày 27 tháng 3 năm 1946, khi chính quyền non trẻ của nhân dân mới được thành lập, đang phải đương đầu với muôn vàn khó khăn thử thách, thù trong giặc ngoài… Nhiệm vụ kiến thiết và bảo vệ đất nước là nhiệm vụ nặng nề của toàn dân tộc, đòi hỏi mỗi người dân phải có sức khỏe. Bác kêu gọi mọi người dân bất kể già trẻ, trai gái gia sức luyện tập thể dục, luyện tập hàng ngày để có sức khỏe, đồng thời Bác cũng khẳng định rằng: Luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi một người yêu nước. Mỗi người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe, có như vậy, công cuộc kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công.
Ngày nay, sự nghiệp cách mạng của đất nước ta đang có những bước chuyển biến tích cực, mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đang dần dần sáng tỏ. Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức và những nguy cơ. Song giá trị của lời kêu gọi “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe” vẫn còn nguyên vẹn và tiếp tục được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy mạnh mẽ trong giai đoạn cách mạng mới. Đặc biệt trước sự phát triển của khoa học và công nghệ và sự xâm lăng của các văn hóa xấu độc. Vì vậy, càng đòi hỏi những người dân yêu nước không những phải có sức khỏe về thể xác mà còn cần có cả sức khỏe về tâm hồn, có như vậy đất nước ta mới thật sự khỏe mạnh và đủ sức chống lại họa xâm lăng và những mầm mống “ung thư” của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Quân đội nhân dân ViệtNamlà lực lượng xung kích trong mọi hoạt động, có chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, với tính chất khó khăn và gian khổ. Vì vậy, việc rèn luyện thể lực, tăng cường sức khỏe cho bộ đội là một yêu cầu thiết yếu trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày nay các cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã và đang không ngừng, rèn luyện cả về thể lực và chí lực, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
Ngày 28 tháng 3 năm 1951
“Xe, xăng là mồ hôi, nước mắt của nhân dân. Các chú phải chăm sóc xe, yêu xe như con, quý xăng như máu” là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với cán bộ chiến sĩ 2 đại đội xe đầu tiên của quân đội ta vào năm 1951. “Hiện nay nước ta chưa sản xuất được xe. Xăng cũng vậy, có rất ít.Kháng chiến còn dài, chiến dịch ngày một mở rộng, yêu cầu vận chuyển ngày càng cao. Vì vậy, các chú phải giữ gìn xe, tiết kiệm xăng để phục vụ bộ đội. Xe, xăng là mồ hôi, nước mắt của nhân dân. Các chú phải chăm sóc xe, yêu xe như con, quý xăng như máu”[85].
Câu nói trên là của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người đến thăm đoàn xe đầu tiên của quân đội nhân dân ViệtNamvào ngày 28 tháng 3 năm 1951. Sau chiến thắng Chiến dịch Biên giới 1950, Quân đội ta đã có 2 đại đội vận tải ô tô đầu tiên, gồm: Đại đội 200 và Đại đội 203 đóng quân tại làng Nà Roác, xã Bạch Đằng (Hòa An). Sau khi ân cần hỏi thăm sức khỏe và tình hình công tác cũng như sự đùm bọc của nhân dân trong vùng, Bác đã căn dặn: “Xe, xăng là mồ hôi, nước mắt, xương máu của nhân dân. Các chú phải chăm sóc xe, yêu xe như con, quý xăng như máu”. Xe, xăng là tài sản, là mồ hôi, là xương máu của nhân dân, vì vậy, Bác yêu cầu các cán bộ, chiến sĩ ngành xe cần phải thực hành tiết kiệm, gia sức giữ gìn tài sản của nhân dân như máu của chính mình. Lời dạy đó đã trở thành phương châm chỉ đạo, khẩu hiệu hành động trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của ngành xe – máy Quân đội từ khi thành lập đến nay.
Hiện nay, trước sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ nói chung và khoa học công nghệ quân sự nói riêng, chúng ta đã sản xuất được xe, xăng. Song lời dạy của Bác “Xe, xăng là mồ hôi, nước mắt của nhân dân. Các chú phải chăm sóc xe, yêu xe như con, quý xăng như máu” vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục được phát huy mạnh mẽ trong công cuộc đổi mới đất nước. Vì công cuộc đổi mới còn cần nhiều cơ sở vật chất và đất nước ta còn nghèo, nhất thiết phải gia sức tiết kiệm cho sự nghiệp cách mạng ấy.
Quân đội nhân dân Việt Nam thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh gần 70 năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Kỹ thuật, Ngành xe – máy quân đội đã thiết thực biến lời dạy của Bác thành Cuộc vận động 50 “Quản lý, khai thác sử dụng vũ khí trang bị tốt, bền, an toàn, tiết kiệm, an toàn giao thông” trong toàn quân, góp phần to lớn tạo nên sức mạnh của Quân đội ta hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Từ đó, ngày 28 tháng 3 đã trở thành ngày truyền thống của Ngành xe – máy Quân đội nhân dân ViệtNam.
Ngày 29 tháng 3 năm 1948
“Muốn thi đua có kết quả tốt, thì đầu óc cần phải suy nghĩ tìm tòi, cũng như tay chân phải cần cù nhanh nhẹn”[86]
Lời nói trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong bài Một công nhân gương mẫu đăng trên Báo Nhân dân, số 392, ngày 29 tháng 3 năm 1955, khi mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của chúng ta vừa kết thúc thắng lợi, nhưng cũng còn nhiều khó khăn, cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ cách mạng (cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam). Vì vậy, để hoàn thành được hai nhiệm vụ khó khăn trên, cần phải có sự nỗ lực cố gắng của toàn thể nhân dân cho sự nghiệp cách mạng, muốn vậy thì phải thi đua, Người khẳng định: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng: Muốn thi đua đạt kết quả tốt thì đầu óc phải suy nghĩ, tìm tòi và phải có sáng kiến thì mới thu được kết quả tốt, cũng như chân tay phải cần cù nhanh nhẹn, có như vậy kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công.
Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp cách mạng nước ta tuy đã đạt được một số thành tựu đáng kể sau 30 năm đổi mới, nhưng vần còn nhiều khó khăn, thách thức. Song lời dạy của Người “Muốn thi đua có kết quả tốt, thì đầu óc cần phải suy nghĩ tìm tòi, cũng như tay chân phải cần cù nhanh nhẹn” vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục được Đảng, Nhà nước, các ban, ngành, các tổ chức chính trị xã hội, thiết thực phát động thành những phong trào thi đua sâu rộng trong toàn thể nhân dân… Để thực hiện tốt nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới, đòi hỏi nội dung, hình thức, phương pháp thi đua phải sát với yêu cầu thực tiễn cụ thể của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân, từ phong trào nhỏ, quy mô nhỏ, tiến tới phong trào lớn và quy mô lớn cấp quốc gia.
Quân đội nhân dân ViệtNamthấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Muốn thi đua có kết quả tốt, thì đầu óc cần phải suy nghĩ tìm tòi, cũng như tay chân phải cần cù nhanh nhẹn”. Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển, yêu cầu cao trong điều kiện đan xen phức tạp cả thời cơ, thuận lợi, khó khăn và thách thức. Điều đó đặt ra cho công tác thi đua phải tiếp tục đổi mới, tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Từ đó, làm cho phong trào thi đua thực sự là động lực thúc đẩy toàn quân hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Ngày 30 tháng 3 năm 1959
“Trong học tập, cán bộ và công nhân phải phê bình nhau thẳng thắn, có đúng nói đúng, có sai nói sai, không sợ mất thể diện; có khuyết điểm nói ra để giúp đỡ nhau sửa chữa”[87]
Câu nói trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói khi đến thăm cán bộ và công nhân Công trường Đèo Nai (Cẩm Phả, Quảng Ninh) vào ngày 30 tháng 3 năm 1959. Đây là thời điểm mà miền Bắc đang phục hồi vết thương chiến tranh, xây dựng tổ chức lại đất nước và tích lũy để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh sắp tới; là giai đoạn thực hiện kế hoạch 3 năm lần thứ 2 (1958-1960). Câu nói “Trong học tập, cán bộ và công nhân phải phê bình nhau thẳng thắn, có đúng nói đúng, có sai nói sai, không sợ mất thể diện; có khuyết điểm nói ra để giúp đỡ nhau sửa chữa”, là quan điểm “phê bình” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở đây là phê bình việc chứ không phê bình người, bên cạnh đó, Bác cũng yêu cầu trong công việc cán bộ, công nhân phải đoàn kết, gần giũ giúp đỡ nhau. Đây là lời dạy sâu sắc của Bác mà lớp lớp cán bộ công nhân mỏ than Đèo Nai luôn khắc sâu ghi nhớ và thực hiện. Cán bộ và công nhân nơi đây luôn đẩy mạnh phong trào thi đua để hoàn thành và hoàn thành vượt mức các kế hoạch sản xuất than, nâng cao đời sống thợ mỏ. Trong những năm kháng chiến, với khẩu hiệu “thợ mỏ làm than, như quân đội đánh giặc”.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực, trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; song lời dạy “Trong học tập, cán bộ và công nhân phải phê bình nhau thẳng thắn, có đúng nói đúng, có sai nói sai, không sợ mất thể diện; có khuyết điểm nói ra để giúp đỡ nhau sửa chữa” của Bác vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tực được đẩy mạnh và phát huy trong suốt quá trình đổi mới đất nước. Sau 30 năm đổi mới đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, để sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại cần phải vận dụng lời dạy của Bác một cách sáng tạo, triệt để trong lao động sản xuất và học tập, có như vậy, sản xuất mới phát triển, kinh tế tăng trưởng cao, đời sống của cán bộ, công nhân được cải thiện, đất nước phát triển…
Quân đội nhân dân Việt Nam thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Trong học tập, cán bộ và công nhân phải phê bình nhau thẳng thắn, có đúng nói đúng, có sai nói sai, không sợ mất thể diện; có khuyết điểm nói ra để giúp đỡ nhau sửa chữa”, vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện hoạt động cụ thể của mỗi đơn vị, cán bộ, chiến sĩ luôn có sự trao đổi đóng góp cho nhau trong thực hiện nhiệm vụ. Có như vậy, Quân đội ta mới thực sự trở thành một lực lượng vũ trang lớn mạnh, thống nhất toàn quân một ý chí, sãn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Ngày 31 tháng 3 năm 1959
Lời Bác Hồ dạy “Không được chủ quan, thỏa mãn; phải đoàn kết nội bộ; đoàn kết quân dân; giữ gìn vũ khí, trang bị, máy móc”[88].
Hơn 3 năm sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, miền Bắc đã có nhiều thành tựu trong xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa – xã hội. Đời sống của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân được nâng cao, chính quyền nhân dân được củng cố. Trong bối cảnh hòa bình đó, tâm lý của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân nói chung; của cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân nói riêng có sự buông lỏng, chủ quan, thỏa mãn. Công tác xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng ở một số đơn vị, địa phương có biểu hiện lơi lỏng. Ngày 31 tháng 3 năm 1959, sau khi Cục Hải quân được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Trường Huấn luyện Hải quân. Tại đây, nói chuyện với lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên trong Cục, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Không được chủ quan, thỏa mãn; phải đoàn kết nội bộ; đoàn kết quân dân; giữ gìn vũ khí, trang bị, máy móc”.
Lời căn dặn của Người không chỉ dành riêng cho cán bộ, chiến sĩ của Cục Hải quân mà là lời căn dặn, nhắc nhở chung cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta không một phút được lơi lỏng, chủ quan, thỏa mãn với những thành tựu bước đầu mới đạt được; phải không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đặc biệt củng cố mối quan hệ máu thịt giữa quân đội với nhân dân. Riêng đối với Quân đội, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác huấn luyện, giữ gìn và đổi mới vũ khí, trang thiết bị; nhanh chóng trưởng thành về mọi mặt, đủ sức bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Hiện nay, đất nước ta đang ở trong giai đoạn hòa bình, phát triển ổn định; tuy nhiên tình hình thế giới, khu vực vẫn tồn tại những diễn biến phức tạp; tranh chấp lãnh thổ, tranh chấp chủ quyền biển, đảo còn diễn ra gay gắt… Trước tình hình đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta lại càng phải ghi nhớ lời dạy của Bác, ra sức củng cố khối đại đoàn kết toàn dân; đặc biệt chú ý giữ gìn, phát triển mối quan hệ giữa Đảng, quân đội với nhân dân; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng; không ngừng ra sức chăm lo, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc chế độ, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ của đất nước. Đối với lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ và chiến sĩ các đơn vị trong toàn quân cần luôn giữ gìn đoàn kết nội bộ; nghiêm túc thực hiện tốt công tác huấn luyện; bảo quản, giữ gìn vũ khí trang bị, luôn bảo đảm sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống.
Ngày 12/12//1953.
” … Sau đây tôi có mấy lời dặn đồng bào và cán bộ ghi nhớ và làm cho đúng: (1) Đoàn kết, thân ái giúp đỡ lẫn nhau. (2) Giúp đỡ bộ đội diệt phỉ, trừ gian, giữ gìn trật tự. (3) Ra sức tăng gia sản xuất để mọi người được ấm no. (4) Hết sức trung thành với Tổ quốc và Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Còn đối với những người trước đây đã lầm đường theo giặc nếu trở về Tổ quốc thì Chính phủ sẽ khoan hồng.
Cán bộ thì phải thật sự gần gũi giúp đỡ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.
Chúc đồng bào và cán bộ mạnh khỏe và cố gắng”[89].
Là nội dung Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ, gửi lời hỏi thăm đồng bào và cán bộ tỉnh Lai Châu, ngay sau ngày tỉnh Lai Châu được giải phóng; thể hiện lòng thương xót, đồng cảm với đồng bào trong hơn 80 năm bị thực dân Pháp và Việt gian phản động áp bức, bóc lột. Đồng thời dặn dò, mong muốn đồng bào, cán bộ tỉnh Lai Châu phải ghi nhớ để luôn tin tưởng, thực hiện tốt đường lối của Đảng, chủ trương của Chính phủ, thi đua đoàn kết, thân ái; ra sức tăng gia sản xuất, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân; tích cực giúp đỡ bộ đội diệt phỉ, trừ gian, giữ gìn trật tự; cùng với đồng bào miền Bắc tích cực chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, xây dựng miền Bắc đi lên Chủ nghĩa xã hội, góp sức cùng cả nước đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Khắc sâu lời dạy của Bác, Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang tỉnh Lai Châu hiện nay luôn tin tưởng tuyệt đối vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc anh em trong tỉnh, ra sức thi đua đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tiếp tục duy trì và triển khai đồng bộ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, cùng với các địa phương trong cả nước, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tiếp tục học tập và làm theo Bác, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang hôm nay, luôn nhất trí cao với với đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; yêu thương đồng chí đồng đội, gắn bó máu thịt với nhân dân, không ngại khó khăn gian khổ, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Ngày 13/12//1951:
“Tinh thần trách nhiệm là gì? Là khi Đảng, Chính phủ hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi, đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy, vv… là không có tinh thần trách nhiệm“[90].
Đó là lời của Bác Hồ trong Bài viết về “tinh thần trách nhiệm” được đăng trên Báo Nhân dân số 36, ngày 13 tháng 12 năm 1951. Đây là năm đầu thực hiện đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ và nhất định thắng lợi” của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đề ra, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đã có một số biểu hiện tư tưởng thiếu cố gắng, làm chưa hết chức trách, nhiệm vụ, nói nhiều, làm ít; làm chưa đến nơi, đến chốn…, để kịp thời đấu tranh, khắc phục và làm cơ sở cho các tổ chức học tập, chỉnh đốn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài viết về tinh thần trách nhiệm.
Thực hiện lời chỉnh huấn của Bác, trong thời điểm ấy, các tổ chức đảng đã tập trung tuyên truyền, giáo dục nâng cao tinh thần cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; nắm chắc tình hình, nhiệm vụ, chủ động khắc phục khó khăn, đoàn kết gắn bó với nhân dân, thi đua phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ giao phó, tạo tiền đề huy động sức mạnh của toàn dân tộc tích cực tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, mà đỉnh cao là thắng lợi Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra yêu cầu ngày càng cao; đại đa số cán bộ đảng viên và quần chúng đều nêu cao vai trò trách nhiệm, thực hiện nghiêm quy định, quy chế làm việc của tổ chức, cơ quan, đơn vị; luôn thể hiện rõ tinh thần chủ động, dám nghĩ, dám làm, tâm huyết, tận tụy với công việc. Cán bộ, chiến sĩ tích cực, tự giác trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, rèn luyện, chấp hành nghiêm kỷ luật, pháp luật; chủ động, sáng tạo, không ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao. Tuy nhiên, cũng còn một số cán bộ đảng viên, quần chúng có biểu hiện trốn tránh trách nhiệm, bớt xén giờ giấc, làm không đúng quyền hạn, chức trách, nói nhiều, làm ít; làm qua loa chiếu lệ… Đòi hỏi việc học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy về “tinh thần trách nhiệm” không chỉ là yêu cầu, trách nhiệm chính trị đối với mọi cán bộ, đảng viên, mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với mọi tổ chức, cá nhân và mọi công dân yêu nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày … 12/1958
“Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ. Lạc hậu và thoái bộ thì sẽ bị quần chúng bỏ rơi. Đó là kết quả tất nhiên của chủ nghĩa cá nhân“[91].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong Tác phẩm bàn về đạo đức cách mạng; thể hiện tính nghiêm túc tự phê bình và phê bình trước những sai lầm, khuyết điểm, trong việc làm ở Trung ương và ở địa phương, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, làm rạn nứt khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đặc biệt phê bình một số cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân trói buộc mà có biểu hiện kiêu ngạo, tự cao tự đại, nói không đi với làm; không muốn người khác phê bình mình; không tự phê bình mình hoặc tự phê bình không trung thực…làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ cách mạng; từ đó chỉ ra yêu cầu phải chỉnh huấn, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng, nghiêm túc phê bình và nghe quần chúng phê bình để kiên quyết khắc phục khuyết điểm sai lầm.
Thực hiện lời Bác Hồ dạy, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và toàn dân; kết hợp chặt chẽ việc nâng cao nhận thức về đường lối chủ trương của Đảng và Chính phủ với kiện toàn tổ chức, mở rộng dân chủ, động viên mọi người, mọi tầng lớp xã hội, nhận rõ đúng sai, tự giác phê bình, nghiêm túc sửa chữa khuyết điểm, xây dựng tinh thần đoàn kết toàn dân, chung sức chung lòng làm theo Đảng, theo Bác, thực hiện nhiệm vụ xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa; hậu phương vững chắc cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Gần 60 năm qua, Lời Bác dạy không những còn nguyên giá trị lịch sử mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đi đôi với đổi mới về chính trị, tăng cường xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; thực hiện đồng bộ các giải pháp, tập trung thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Cán bộ, đảng viên và quần chúng trong Đảng bộ Quân đội thấm nhuần lời Bác Hồ dạy, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đi đầu trong đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng chỉnh đốn Đảng, ra sức học tập, rèn luyện phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”; trong bất cứ hòan cảnh nào cũng xứng đáng là lực lượng chính trị, đội quân chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Ngày …12/1958.
“Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang“[92].
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm bàn về đạo đức cách mạng, được viết vào tháng 12 năm 1958; trong lúc toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang tập trung xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì có một số cán bộ, đảng viên của Đảng đã phai nhạt đạo đức cách mạng, biểu hiện kiêu ngạo, công thần, tự cao tự đại; lòng tham ham muốn danh lợi, địa vị cho riêng mình, không đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, không làm đúng với chính sách và nghị quyết của Đảng, lời nói không đi đôi với việc làm; xa rời quần chúng, không được quần chúng tin theo… đã trở ngại lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò quan trọng của phẩm chất đạo đức đối với người làm cách mạng, yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên được giáo dục nâng cao tinh thần trách nhiệm, ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, để trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng tuyệt đối trung thành với Đảng, quyết tâm suốt đời phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng; vì cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; thực hiện nghiêm chỉnh đường lối quan điểm, nghị quyết của Đảng, nêu cao tinh thần cách mạng; gương mẫu trong lối sống, sinh hoạt, lời nói đi đôi với việc làm, gặp việc khó không nản chí, đầu tầu làm trước để quần chúng noi theo, làm theo.
Hiện nay, trước yêu cầu cao của nhiệm vụ Bảo vệ Tổ quốc; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch; sự tác động từ mặt trái cơ chế thị trường, những tiêu cực trong đời sống xã hội; đặc biệt là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm… trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; qua đó càng làm cho Đảng ta nhận rõ hơn giá trị tư tưởng về Lời của Bác Hồ và vai trò, tầm quan trọng của đạo đức cách mạng đối với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng và lời Bác Hồ dạy, cán bộ, đảng viên và quần chúng trong Đảng bộ Quân đội phải nhận thức sâu vai trò tầm quan trọng về phẩm chất đạo đức cách mạng; thường xuyên tích cực học tập nâng cao năng lực, trình độ toàn diện; tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có lòng trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; quan tâm, gắn bó, kính trọng, giúp đỡ nhân dân; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; dù trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, cũng tỏa sáng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, xứng đáng là mẫu hình tiêu biểu con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày 16/12/1945.
“Chịu khó, chịu khổ: Muốn giữ vững tinh thần chiến đấu, muốn dẻo dai trong lúc tác chiến, ngay bây giờ bộ đội phải tập ăn uống kham khổ, chịu đựng sự thiếu thốn cho quen; tập đi bộ, tập đi nặng, làm việc tỉ mỉ… Chịu khó, chịu khổ là phương thuốc bổ cho tinh thần và lực lượng bộ đội“[93]; là lời Hồ Chủ tịch khuyên răn bộ đội, đăng trên báo Chiến thắng, tờ báo của Việt Nam Vệ Quốc đoàn, xuất bản tại Hà Nội, số 16 và 18 ngày 16 và ngày 18/12/1945.
Trước yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong thời điểm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mọi cán bộ, chiến sĩ phải tự phê bình nghiêm túc với bản thân để sửa chữa khuyết điểm; nêu cao tinh thần học tập, huấn luyện, rèn luyện về mọi mặt, nhất là sức khỏe phải dẻo dai, ý chí quyết tâm cao, tác phong sâu sát, tỉ mỉ, đoàn kết thống nhất cao, sẵn sàng thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Thực hiện lời Bác Hồ dạy, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang nghiêm túc tự phê bình, chấn chỉnh, khắc phục những khuyết điểm, sai sót; kiên trì, nhẫn nại, nêu cao tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm sắt đá, đoàn kết một lòng, cùng với toàn Đảng, toàn dân chiến đấu thắng lợi, hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và làm tròn nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, cùng với những tác động tích cực, xu thế quốc tế hóa và hội nhập quốc tế đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta thực hiện nhiệm vụ quân sự – quốc phòng, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc. Song mặt trái của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội,… đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ toàn quân phải luôn giữ vững và phát huy cao độ truyền thống “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, SSCĐ chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện với tinh thần “Khổ luyện thành tài, miệt mài thành giỏi”, “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”; nêu cao tinh thần đoàn kết, chủ động khắc phục khó khăn, tự lực, tự cường, mưu trí, sáng tạo, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; xứng đáng là lực lượng chính trị đặc biệt, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, tiếp tục góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.
Ngày /12/1958
“Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong“[94]; là lời Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong Tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, đăng trên Tạp chí học tập, số 12 năm 1958; với nỗi day dứt, trăn trở trước yêu cầu phát triển của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân, không làm được cách mạng. Muốn có đạo đức mạng phải rèn luyện thường xuyên, bền bỉ trong mọi hoạt động thực tiễn; phải tỉ mỉ công phu mới có được phẩm chất đạo đức tốt và ngày càng được bồi đắp, nâng cao.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, bằng sự cố gắng học tập, rèn luyện nghiêm túc, kiên trì, đạo đức cách mạng đã giúp cho cán bộ, đảng viên của Đảng luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, vững vàng trong mọi thử thách, khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại vẫn không lùi bước; khi gặp thuận lợi thành công vẫn giữ vững tinh thần khiêm tốn, không tự đắc, tự mãn, không kiêu ngạo, không kèn cựa thiệt hơn; một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đã và đang xuất hiện tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống…, đang đặt ra yêu cầu cao đối với việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng đối với cán bộ đảng viên và quần chúng.
Trước yêu cầu nhiệm vụ Bảo vệ Tổ quốc, người quân nhân cách mạng phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng thường xuyên, liên tục, ở mọi lúc, mọi nơi, gắn với thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, học tập và công tác hàng ngày. Quân nhân có chức vụ càng cao thì càng phải gương mẫu học tập, rèn luyện để trao dồi đạo đức cách mạng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Trước sự tuyên truyền, kích động chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, những tiêu cực xã hội, sự cám dỗ vật chất trong đời sống xã hội hiện nay, càng đòi hỏi quân nhân phải nghiêm túc, tự giác học tập, tu dưỡng rèn luyện đạo đức suốt đời; dù đang công tác trong quân đội hay xuất ngũ hoặc chuyển lĩnh vực công tác khác cũng phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, không ngừng phấn đấu giữ vững và phát huy hơn nữa phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”.
Tháng 12/1954:
“Nhiệm vụ của Quân đội hiện nay là phải cố gắng tiến lên chính quy. Đây là nhiệm vụ mới. Không nên vì hòa bình mà xao lãng học tập“[95]; đó là lời dặn của Bác trong buổi nói chuyện với anh chị em, đại diện cho các đơn vị về tham dự cuộc duyệt binh sẽ diễn ra vào ngày 01 tháng 01 năm 1955 tại Thủ đô Hà Nội; Bác gửi lời thăm hỏi, biểu dương các cô, chú đã học khá, nhưng cần cố gắng hơn nữa. Bác căn dặn, từ chiến tranh chuyển sang hòa bình có nhiều tư tưởng không đúng nảy sinh, phải ngăn chặn những tư tưởng ấy; phải cố gắng học tập về chính trị để nắm vững chính sách của Đảng, Chính phủ, để đi đúng đường lối của nhân dân và vươn lên làm chủ về kỹ thuật tiên tiến; phải quan tâm chăm lo sức khỏe; giữ nghiêm kỷ luật, thật thà đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ, thì mới nhanh chóng tiến lên chính quy, sẵn sàng thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Trong tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại hóa một số quân binh chủng, lực lượng; bảo đảm số lượng hợp lý; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, cán bộ, chiến sĩ hôm nay luôn nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, kiên định với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, chủ động nắm chắc tình hình, nhiệm vụ và âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, đề cao cảnh giác; ra sức học tập, huấn luyện nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt; thuần thục về kỹ năng, kỹ thuật quân sự và chuyên môn, nghiệp vụ; tích cực tu dưỡng, rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật, đạo đức lối sống và tác phong quân nhân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ngày 19/12/1946:
“… Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ …”[96]; đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ta, ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Cuối năm 1946, sau những nỗ lực đàm phán hòa bình giữa Việt Nam dân chủ Cộng hòa với Chính phủ Pháp bị thất bại; quan hệ Việt – Pháp ngày càng căng thẳng và có nguy cơ xảy ra chiến tranh. Với dã tâm thống trị Việt Nam của thực dân Pháp, từ ngày 16 đến 18/12/1946, tại nhiều nơi trên đất nước ta, quân đội thực dân Pháp đã gây ra nhiều vụ tàn sát đối với đồng bào ta; gửi hậu thư đòi yêu sách… và đe dọa hành động chiến tranh. Trước tình hình đó, Ngày 18 và 19/12/1946 tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng quyết định phát động toàn quốc kháng chiến.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được công bố vào tối ngày 19/12/1946, trong bối cảnh đất nước đang gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với ý chí quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” của cả dân tộc đã giúp cho Đảng, Chính phủ vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng đi đến thành công.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến viết cách đây hơn 70 năm được xem là một lời hịch của non sông – lời hiệu triệu lịch sử, là một văn kiện có tính chất cương lĩnh chính trị, quân sự có giá trị thời đại sâu sắc. Trong tình hình mới, yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, tiếp tục nêu cao tinh thần giác ngộ cách mạng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ra sức thi đua đóng góp công sức, trí tuệ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với Quân đội ta, để thực sự là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phải thường xuyên quán triệt, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; nhất là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội, ứng phó thắng lợi với mọi tình huống; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.
Ngày 20/12/1961:
“Thanh niên ta có vinh dự to thì cũng có trách nhiệm lớn. Để làm tròn trách nhiệm, thanh niên ta phải nâng cao tinh thần làm chủ tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân, chớ phô trương hình thức, chớ kiêu ngạo tự mãn. Phải thấm nhuần đạo đức cách mạng tức là học tập, lao động, sinh hoạt theo đúng đạo đức của thanh niên xã hội chủ nghĩa[97]“, là lời của Bác Hồ trong bài nói chuyện tại Đại hội toàn quốc lần thứ II của Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam, đăng trên Báo Nhân dân, số 2830, ngày 21/12/1961. Nhân dịp đó, Bác đã gửi lời khen ngợi đến các lực lượng thanh niên đã tích cực thi đua thực hiện khẩu hiệu: “Đâu cần thanh niên có; việc gì khó, thanh niên làm” và mong thanh niên thực hiện cho kỳ được những nhiệm vụ chính mà Đại hội đã nêu, để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm nền tảng vững mạnh để hòa bình thống nhất nước nhà.
Thực hiện lời dạy của Bác “Đâu cần thanh niên có; việc gì khó, thanh niên đi đầu”, các thế hệ đoàn viên, hội viên, thanh niên, đội viên thiếu niên và nhi đồng ở nước ta đã nỗ lực hết mình trong việc chung tay góp phần xây dựng miền Bắc vượt qua mọi khó khăn thử thách, đạt được nhiều thắng lợi hết sức to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là hậu phương vững chắc cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa sau này.
Ngày nay, vinh dự, tự hào và phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, Thanh niên Quân đội luôn nêu cao tinh thần chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, trung thành, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ra sức học tập, rèn luyện; thi đua rèn đức, luyện tài, vươn tới những đỉnh cao, làm chủ khoa học hiện đại. Đồng thời Thanh niên Quân đội luôn là lực lượng mẫu mực, đi đầu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; lực lượng xung kích trong phòng, chống có hiệu quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chủ động khắc phục khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho.
Ngày 21/12/1956:
“Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân là một việc làm cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[98] là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Thư gửi đồng bào Thị xã Phát Diệm và các xã Vĩnh Khang, Tam Cường, Diễn Liên, Liên Sơn đăng trên Báo Nhân dân số 1024, ngày 24/12/1956 về sự cố gắng trong việc thanh toán nạn mù chữ; khẳng định thắng lợi vẻ vang bước đầu trên mặt trận văn hóa; có thắng lợi đó là nhờ sự đoàn kết nhất trí, sự cố gắng rất nhiều của đồng bào và toàn thể cán bộ. Kết quả đó làm vẻ vang đồng bào các địa phương ấy và vẻ vang chung cho cả nước; sẽ giúp địa phương nói riêng, miền Bắc nói chung, đẩy mạnh công cuộc khôi phụ kinh tế, phát triển dân chủ… Đồng thời Bác Hồ khuyên dặn cán bộ và đồng bào tiếp tục cố gắng học thêm nữa, học mãi để tiến bộ mãi mãi..
Trong giai đoạn hiện nay, lời Thư của Bác năm xưa vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với cách mạng nước ta; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ: Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc ViệtNamxã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển; yêu cầu về giá trị văn hóa không chỉ có trình độ học vấn cao, mà đòi hỏi phải bồi dưỡng, xây dựng những chuẩn mực con người mới Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đối với cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, không chỉ có đầy đủ những chuẩn mực chung về con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà còn phải thực sự tiêu biểu về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, phát huy cao độ phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, gắn bó đoàn kết mật thiết với nhân dân; sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, tập 74, trang 272.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.15, tr.263.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.12, tr.30.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.7, tr.246.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.12, tr.407.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.4, tr.171.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.4, tr.172.
[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.1, tr.149.
[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.4, tr.175.
[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.5, tr.28.
[13] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.9, tr.254.
[14] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.14, tr.238.
[15] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.6, tr.312.
[16] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.15, tr.22.
[17] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.7, tr.11.
[18] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.76 tr.16.
[19] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.9 tr.263.
[20] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.5 tr51.
[21] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.3 tr.251.
[22] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.15 tr.420.
[23] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.10 tr.482.
[24] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.7 tr.292.
[25] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.8 tr.393.
[26] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.13. tr.20
[27] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.5 tr.44.
[28] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.15 tr.544.
[29] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.10 tr.490.
[30] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t.13 tr.25.
[31] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, t8 tr.397.
[32] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, tập 10, tr.262.
[33] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, tập 6, tr.28.
[34] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, tập 14, tr.28.
[35] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, tập 14, tr.33.
[36] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.42.
[37] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.53.
[38] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 11, tr.269.
[39] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 9, tr.307.
[40] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.38.
[41] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.292.
[42] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.37.
[43] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 14, tr.485.
[44] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 13, tr.340.
[45] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.501.
[46] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.301-302.
[47]. Nguồn sức mạnh: Bác Hồ với bộ đội phòng không, Nxb Sự thật, H.1992, tr.203.
[48]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.50.
[49]. Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, H.2009, tr.43.
[50]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 9, tr.331.
[51]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.68.
[52]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 10, tr.273-274.
[53]. Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, H.2009, tr.325.
[54]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 12, tr.493.
[55]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.470.
[56]. Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, H.1989, tập II, tr.133.
[57]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 9, tr.34.
[58]. Hồ Chí Minh biên niên Tiểu sử, (Xuất bản lần 2), Nxb Chính trị quốc gia, H.2008, tập 6, tr.240.
[59]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 9, tr.343.
[60]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 10, tr.512.
[61]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 7, tr.333.
[62] . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr. 88.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 14, tr. 40.
- 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 9, tr. 354.
1 . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 9, tr. 364.
1 . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 503.
[63] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 8, tr.425.
[64]Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 12, tr.505.
[65] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tập 7, tr. 340.
[66] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tập 5, tr. 104.
[67]Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.228.
[68] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12 (1959-1960) , Xuất bản lần thứ 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 519.
[69] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9 (1954- 1955), Xuất bản lần thứ 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 368.
[70] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12 (1959-1960), Xuất bản lần thứ 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.521-526
[71] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8 (1953-1954), Xuất bản lần thứ 3, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2011, tr.433
[72] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 15 (1968-1969), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr. 439.
[73] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập IV, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr.236.
[74] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập VII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr.345-346.
[75] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr.188.
[76] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.113.
[77] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, Sđd, tr.114.
[78] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập XV, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr.319-320.
[79] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr.367.
[80] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập V, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr.631-632.
[81] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập V, Sđd, Tr.90.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr. 84.
1 Quốc hội ta do toàn dân tự do bầu cử, là đại biểu chân chính của nhân dân cả nước từ Bắc đếnNam.
[82] . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 10, tr. 290.
[83] . Đại hội giáo dục phổ thông toàn quốc họp từ ngày 14-3 đến ngày 27-3-1956, tại Hà Nội.
1 . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr. 90.
1 . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 66.
[84] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr. 286.
1Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội 2011, tr. 241.
[85]Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội 2011, tr. 58.
[86]Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội 2011, tr. 384.
[87]Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội 2011, tr. 144.
[88] Cục Chính trị Quân chủng Hải quân, Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955 – 2015), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015, tr. 67.
[89] Hồ Chí Minh TT, NXB CTQG, HN 2011, tập 8, trang 367 – Báo nhân dân số 155, từ ngày 21-25/12/1953.
[90] Hồ Chí Minh TT tập 7, NXB CTQG, HN 2011, trang 248,249.
[91] Hồ Chí Minh TT tập 11, NXB CTQG, HN2011, trang 248,249.
[92] Hồ Chí Minh TT tập 11, NXB CTQG, HN2011, trang 612.
[93] Bài viết: “Hồ Chủ tịch khuyên răn bộ đội”, đăng trên báo Chiến thắng, tờ báo của Việt Nam Vệ Quốc đoàn, xuất bản tại Hà Nội (số 16 và 18 ngày 16 và ngày 18/12/1945 – HCT khuyên răn bộ đội; NXB CTQG HN2006, tr101.
[94] Hồ Chí Minh, TT, tập 9, NXB CTQG, HN1996, trang 293.
[95] Hồ Chí Minh TT tập 7, NXB CTQG, HN1996, trang 424.
[96] Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (Hồ Chí Minh TT tập 4, NXB CTQG, HN2011, trang 534
[97] Hồ Chí Minh TT tập 13, NXB CTQG, HN2011, trang 299.
[98] Hồ Chí Minh TT tập 10, NXB CTQG, HN2011, trang 458; đăng trên Báo Nhân dân số 1024, ngày 24/12/1956.