Giới thiệu

Tin tức

Mỗi ngày một lời Bác Hồ dạy-Lời Bác dạy tháng 5

2042

LỜI BÁC DẠY THÁNG 5


Ngày 01/5/1952

“Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”[1].

Là lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài phát biểu khai mạc Đại hội các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc năm 1952.

Sau 4 năm phát động, từ năm 1948 đến năm 1952, phong trào thi đua ái quốc đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Để tiếp tục cổ vũ, tuyên dương và mở rộng phong trào thi đua, từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 06 tháng 5 năm 1952, tại Việt Bắc, Đại hội toàn quốc các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu đã được tổ chức. Đại hội vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh, người khởi xướng phong trào thi đua ái quốc đến dự và phát biểu; Bác đặc biệt nhấn mạnh: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”.  

Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết một lòng, đem hết sức mình tham gia kháng chiến và kiến quốc thành công. Từ đó phong trào thi đua đã phát triển ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng qua các thời kỳ, trong các tầng lớp nhân dân và các lực lượng vũ trang, với nhiều nội dung phong phú và hình thức sinh động, góp phần quan trọng vào việc động viên sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thực hiện lời Bác dạy, phong trào thi đua yêu nước đã được cụ thể hoá thành phong trào thi đua Quyết thắng trong quân đội cổ vũ, động viên, khích lệ cán bộ, chiến sĩ toàn quân hưởng ứng góp phần thực hiện tốt các khâu đột phá, khắc phục khâu yếu, mặt yếu, khơi dậy ý thức tự lực tự cường, vượt qua khó khăn, thách thức, phát huy truyền thống “quyết chiến, quyết thắng” và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển, đảo của Tổ quốc. Toàn quân xuất hiện ngày càng nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trên các lĩnh vực công tác, trực tiếp góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh; cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Ngày 02/5/1959

“Đảng và Chính phủ lúc nào cũng chú ý đến đồng bào vùng cao và càng ngày càng hết sức chú ý giúp đỡ đồng bào nhiều hơn nữa”[2]

  Đó là lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại buổi nói chuyện với Đoàn đại biểu các dân tộc ít người về dự lễ kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động, ngày 01 tháng 5 năm 1959 tại Thủ đô Hà Nội.

Đây là giai đoạn miền Bắc đang đẩy mạnh phong trào tổ đổi công, tiến dần lên hợp tác xã; trong đó, đồng bào các dân tộc ít người là lực lượng chủ yếu trong phát triển phong trào ở miền núi. Lời khẳng định của Bác thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Chính phủ trong thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, nhất là đoàn kết với đồng bào các dân tộc ít người và trách nhiệm của Đảng, Chính phủ đối với việc thực hiện chính sách đó, góp phần cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào ở vùng cao.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước đã quan tâm với việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn đối với đồng bào vùng cao, vùng dân tộc ít người; trong đó: Chú trọng phát triển kinh tế phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể từng vùng, đảm bào cho đồng bào các dân tộc phát huy thế mạnh của địa phương, làm giàu cho mình và cho xã hội; ưu tiên phát triển giáo dục, coi trọng việc đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số; tôn trọng và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của từng dân tộc…

Học tập và làm theo lời Bác dạy, Quân đội đã thường xuyên quan tâm làm tốt công tác đào tạo, tuyển dụng con em các đồng bào dân tộc ít người với việc mở các lớp đào tạo thiếu sinh quân tạo điều kiện thuận lợi cho con em đồng bào học tập và công tác trong quân đội. Các đơn vị có bộ đội với nhiều dân tộc khác nhau, luôn lãnh đạo tốt việc xây dựng mối đoàn kết, gắn bó giữa cán bộ, chiến sĩ người kinh với người dân tộc; làm tốt công tác phân loại đối tượng huấn luyện, giáo dục để nâng cao chất lượng huấn luyện đối với bộ đội là con em dân tộc ít người. Đặc biệt, thực hiện chức năng đội quân công tác, các đơn vị quân đội luôn chủ động phối hợp tốt với cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể địa phương vùng cao, vùng sâu, vùng xa làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; tích cực tham gia triển khai các chương trình, dự án xây dựng đơn vị kinh tế quốc phòng, gắn với phát triển kinh tế – xã hội ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; đẩy mạnh phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, cuộc vận động “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo”, chương trình “Bò giống giúp người nghèo biên giới”, chương trình “Nâng bước em tới trường”, “Tết Biên phòng, ấm lòng dân bản”… góp phần xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao đời sống cho đồng bào, củng cố, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, thế trận quốc phòng toàn dân góp phần quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, thực hiện điều mong muốn của Người “đưa miền núi tiến kịp miền xuôi”.  

Ngày 03/5/1948

“Toàn dân đoàn kết muôn năm.

Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”[3]

Là lời kêu gọi đồng bào Cao Đài, Hòa Hảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đăng trên Báo Cứu quốc, chi nhánh số 6, số 917, ngày 03 tháng 5 năm 1948.

Trong bối cảnh một số đồng bào theo đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo bị thực dân Pháp và các giáo sĩ phản động mua chuộc, lôi kéo, bắt làm lính, chống lại cách mạng, đi ngược lại lợi ích và truyền thống tốt đẹp của dân tộc… sau khi được vận động, giáo dục đã thức tỉnh, quay súng trở về với cách mạng, với Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết lời kêu gọi để kịp thời biểu dương những anh em đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo lầm đường theo địch, nay đã tỉnh ngộ; đồng thời, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của đế quốc, thực dân xâm lược.

Đại đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được nâng lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh, tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn, chiến thắng giặc ngoại xâm và giành thắng lợi có ý nghĩa lịch trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng bào theo các tôn giáo đã đoàn kết cùng đồng bào cả nước thực hiện ước nguyện của Bác Hồ là xây dựng đất nước ta “Sánh vai với các cường quốc năm châu”. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận đều chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng đường hướng hành đạo riêng, phù hợp với  đạo lý của mình, như: “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” của Phật giáo; “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” của Công giáo; “Sống Phúc âm phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc” của Hội thánh Tin Lành; “Nước vinh, Đạo sáng” của Cao Đài… tất cả vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thực hiện lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã luôn đoàn kết, gắn bó với nhau như ruột thịt, trên tình thương yêu giai cấp, hết lòng giúp đỡ nhau, lúc thường cũng như lúc ra trận; không phân biệt dân tộc, tôn giáo, vùng miền… Đây chính là nhân tố có vị trí quan trọng bậc nhất tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của Quân đội ta. Cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tốt việc xây dựng tinh thần đoàn kết gắn bó giữa cán bộ với chiến sĩ, đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo trong tình thương yêu đồng chí, đồng đội, thực hiện toàn quân một ý chí. Bên cạnh đó, quân đội còn luôn thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, làm tốt công tác dân vận, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo, kiên quyết đấu tranh với các thế lực thù địch tuyên truyền, chống phá chính sách đại đoàn kết của Đảng, Nhà nước… góp phần quan trọng xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng, yêu mến dành tặng cho danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”.

Ngày 04/5/1957

“Công trạng của cá nhân chủ yếu là nhờ tập thể mà có. Vì vậy người có công trạng không nên tự kiêu mà cần khiêm tốn”[4]

Là lời căn dặn của Chủ tịch trong bài nói chuyện tại lớp chỉnh huấn cán bộ trung, cao cấp Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các tổng cục vào tháng 5 năm 1957.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc rèn luyện đội ngũ cán bộ của Đảng nói chung, cán bộ quân đội nói riêng về “đức” và “tài”; trong đó, Bác luôn lấy “đức” làm gốc và đề cao đức tính khiêm tốn. Bởi khiêm tốn là một trong những đức tính quan trọng nhất của con người. Người khiêm tốn luôn là người biết mình, hiểu người, không tự mình đề cao vai trò, ca tụng chiến công, thành tích của cá nhân, cũng không bao giờ chấp nhận một tinh thần chủ bại mang nhiều mặc cảm của cuộc đời đối với mọi người. Khiêm tốn sẽ giúp mỗi người có được sự tỉnh táo, để nhận thức chân lý một cách đúng đắn, khách quan; đồng thời nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của mọi người. Khiêm tốn luôn là một đức tính tốt mà mỗi người cần trau dồi, rèn luyện, đặc biệt đối với người cán bộ, đảng viên, những người lập được thành tích, công trạng lớn.

Học tập và làm theo lời Bác dạy, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn đề cao và thực hành đức tính khiêm tốn trong sinh hoạt, học tập, công tác và chiến đấu, trở thành một nét đẹp văn hóa ẩn sâu trong nhân cách người quân nhân cách mạng, trở thành lời thề danh dự “… thắng không kiêu, bại không nản” được nhân dân luôn tin tưởng, yêu mến, dành tặng cho danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”.  

Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” cán bộ, chiến sĩ toàn quân nêu cao tinh thần, trách nhiệm, thi đua “rèn đức, luyện tài”, tích cực “tự soi, tự sửa”, “Làm việc theo chức trách, nêu gương trong hành động”, đoàn kết tốt, khiêm tốn, học hỏi, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đối với đội ngũ cán bộ chủ trì, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị học và làm theo Bác luôn gương mẫu, đi đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, đề cao tính khiêm tốn, học hỏi, rèn luyện tác phong lãnh đạo, chỉ huy dân chủ, quần chúng, luôn tôn trọng và chân thành lắng nghe, tiếp thu sự phê bình từ cấp dưới và quần chúng. Kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tự kiêu, tự đại, độc tôn chân lý, cửa quyền, hách dịch, thờ ơ, vô cảm…

Ngày 05/5/1948

“Nay chúng ta cũng già trẻ một lòng, trường kỳ kháng chiến, chúng ta nhất định sẽ đánh tan giặc Pháp”.[5]

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Thư gửi đội lão du kích, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, ngày 5 tháng 5 năm 1948. Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta đang trên đà thắng lợi với các chiến thắng Việt Bắc, Thu Đông năm 1947 và đang chuẩn bị mọi điều kiện để chuẩn bị cho tổng phản công. Bác khẳng định: “Tổ tiên ta đời Trần, vì già trẻ một lòng trường kỳ kháng chiến, mà đánh tan giặc Nguyên. Nay chúng ta cũng già trẻ một lòng, trường kỳ kháng chiến, chúng ta nhất định sẽ đánh tan giặc Pháp”. Lời dạy của Bác đã cổ vũ, khích lệ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, không phân biệt nam hay nữ, già hay trẻ đều một lòng, một dạ quyết tâm trường kỳ kháng chiến đánh thắng thực dân Pháp xâm lược giành thắng lợi trong công cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

          Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay, thực hiện lời Bác dạy, quân và dân ta đã luôn đoàn kết, tin tưởng, kiên định với đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, đã và đang đạt được những thành tựu quan trọng, uy tín và vị thế của Việt Nam ngày càng tăng cao trên trường quốc tế.

Vinh dự, tự hào được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, Quân đội ta luôn trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần quốc tế vô sản, rèn luyện ý chí chiến đấu, đoàn kết một lòng, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Trong giai đoạn hiện nay, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phát huy truyền “quyết chiến, quyết thắng”, toàn quân tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, đề cao cảnh giác, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển. Tích cực tham gia vận động, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng thế trận lòng dân ngày càng vững chắc, cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngày 06/5/1950

“Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”[6]

Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập năm 1950. 

Trong điều kiện vừa kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng chế độ xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác huấn luyện và học tập. Từ việc xác định mục đích của việc học tập, Người đề ra yêu cầu, địa chỉ rõ ràng để mỗi người, nhất là cán bộ, đảng viên phấn đấu học tập, rèn luyện thường xuyên, hướng tới mục tiêu phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Lời dạy của Người có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, xác định rõ tầm quan trọng của việc học tập, nhất là học ở nhân dân, đó là môi trường học tập rộng lớn nhất, toàn diện nhất và hiệu quả nhất. Nhân dân không chỉ là đối tượng lãnh đạo, mà còn là người thầy lớn, giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên tiếp cận những kiến thức bổ ích, thiết thực trên mọi phương diện công tác và trong cuộc sống, vì “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”.

Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, khi mọi tri thức đều có thể được số hóa, được cập nhật qua các phương tiện truyền thông hiện đại một cách nhanh chóng, phong phú, đa dạng, thì lời Bác dạy vẫn còn nguyên giá trị đối với việc học tập, nhất là học ở nhân dân. Trong xây dựng, hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, những ý kiến và trí tuệ của nhân dân luôn được Đảng, Nhà nước ta coi trọng, gợi mở ra nhiều điều mới mẻ, sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề quan trọng của đất nước, trên tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân ủng hộ, dân giúp đỡ”.

Quân đội nhân dân Việt Nam, một đội quân “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, càng thấm nhuần hơn nữa lời dạy của Người trong nhiệm vụ học tập, nâng cao trình độ tư duy lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật, làm chủ vũ khí, phương tiện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân càng phải gần gũi nhân dân, giúp đỡ nhân dân, dựa vào nhân dân và học hỏi nhân dân, để xứng đáng với tình cảm, sự quý trọng của nhân dân giành cho “Bộ đội Cụ Hồ”.

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải luôn gương mẫu đi đầu trong tự học, tự rèn, học tập suốt đời; gần gũi với cấp dưới, với bộ đội, khiêm tốn, chân thành học hỏi cấp dưới, học hỏi nhân dân, nhất là những điều còn thiếu; thật sự là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết, xây dựng quân đội cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Ngày 07/5/1958

“Lý luận kết hợp với thực hành, học tập kết hợp với lao động”.[7]

Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội Sinh viên Việt Nam lần thứ II, năm 1958.

Lời dạy của Người đối với sinh viên Việt Nam diễn ra trong bối cảnh miền Bắc đang thực hiện Kế hoạch 3 năm lần thứ hai (1958- 1960). Cùng với các lĩnh vực khác, trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, cũng có những vấn đề mới trong thực tiễn đặt ra, đòi hỏi phải kịp thời chấn chỉnh, định hướng; Bác đã chỉ rõ: “Lao động trí óc mà không lao động chân tay, chỉ biết lý luận mà không thực hành thì cũng là tri thức có một nửa. Vì vậy, cho nên các cháu trong lúc học lý luận cũng phải kết hợp với thực hành”. Lời dạy của Người chỉ ra phương châm giáo dục đào tạo bao hàm cả lý luận và thực tiễn, lý thuyết với thực hành, Người xác định lao động là quyền, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi công dân đối với Tổ quốc. Ai cũng phải tùy khả năng của mình mà tự nguyện, tự giác tham gia lao động, góp phần xây dựng nước nhà. Mỗi người phải nhận rõ: Lao động là vinh quang, lao động chân tay hay lao động trí óc đều là vẻ vang, đáng quý. Do vậy, học tập phải kết hợp với lao động, sản xuất…

           Học tập và làm theo lời Bác dạy, công tác huấn luyện, đào tạo trong quân đội luôn được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc với việc ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết chuyên đề lãnh đạo công tác huấn luyện, công tác giáo dục đào tạo và được cụ thể hóa thành 3 quan điểm, 8 nguyên tắc, 6 mối kết hợp trong huấn luyện; trong đó, xác định lý luận liên hệ với thực tiễn, lý thuyết đi đôi với thực hành, lấy thực hành làm chính. Kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện, kiểm tra và diễn tập các cấp có bắn đạn thật để không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Kết quả công tác huấn luyện, đào tạo được xác định là một tiêu chí quan trọng, là thước đo để đánh giá năng lực lãnh đạo, chỉ huy của cấp ủy, chỉ huy các cấp. Bên cạnh việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của đội quân chiến đấu, quân đội luôn coi trọng và tiến hành có hiệu quả chức năng đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất trong tình hình mới.

Ngày 08/5/1954

“Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan khinh địch”[8]

Trích trong thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ngày 08 tháng 5 năm 1954 khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc đã chiến thắng vẻ vang ở Điện Biên Phủ.

Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 07 tháng 5 năm 1954 đã kết thúc hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp xâm lược đối với nước ta và cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới và trở thành chân lý của thời đại: “Một dân tộc dù nhỏ bé, nếu biết quyết tâm, đoàn kết chiến đấu và có một đường lối đúng thì có thể đánh bại được bất cứ tên đế quốc sừng sỏ nào”. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã ghi thêm một trang sử oanh liệt trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, nối tiếp những thắng lợi trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, được ví như những chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỷ XX.

Ngay sau ngày vui lớn của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong, đồng bào Tây Bắc; đồng thời căn dặn quân và dân ta chớ kiêu ngạo, khinh địch… thể hiện tầm nhìn và dự báo chiến lược của Bác đối với cách mạng nước ta. Khắc ghi lời Bác dạy, quân và dân ta luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không chủ quan, khinh địch, không tự kiêu, tự đại với những chiến công và thành tích, đã viết tiếp vào trang sử vàng dân tộc một chiến thắng vĩ đại trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, thu giang sơn về một mối, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam.

Ngày nay, hòa bình, hữu nghị, hợp tác là xu thế chủ đạo, song tình hình thế giới, khu vực vẫn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định, đất nước ta đứng trước thời cơ và thách thức mới. Thấm nhuần lời căn dặn của Bác năm xưa cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn chủ động quán triệt nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, nhất là đường lối quân sự, quốc phòng, đề cao cảnh giác, nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ và khả năng chiến đấu, làm chủ các loại vũ khí trang bị, chủ động phát hiện và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm an ninh, trật tự, tạo môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước.

Ngày 09/5/1954

“Dạy dần dần từ ít đến nhiều, từ dễ đến khó, từ thấp đến cao. Không tham nhiều, không nhồi sọ. Dạy một cách thiết thực. Lý luận gắn chặt với thực hành”[9]

Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giáo dục chi bộ và cốt cán ở nông thôn, năm 1954.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác, quân và dân ta đã giành thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ, kết thúc hơn 80 năm thực dân Pháp đô hộ và tiến hành việc cải cách ruộng đất. Do vậy, yêu cầu đặt ra phải sớm xây dựng những cán bộ cốt cán gương mẫu, nhất là ở nông thôn để làm đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, đạt được nguyện vọng của quần chúng. Phương pháp giáo dục dạy dần dần từ ít đến nhiều, từ dễ đến khó, lí luận gắn với thực hành của Người thực sự đem lại hiệu quả tích cực, không gây áp lực, mang đến sự hào hứng và nhu cầu học tập thiết thực cho người học, để hiểu biết thêm, nâng cao thêm trình độ, gắn lý thuyết đã học vào giải quyết các công việc do thực tiễn đặt ra. Lời Bác dạy, là những chỉ dẫn quan trọng về phương pháp trong giáo dục, huấn luyện cán bộ, coi trọng cán bộ cấp huyện, xã, góp phần không nhỏ vào việc đào tạo một đội ngũ cán bộ cốt cán, thạo việc, tư tưởng thông, lập trường vững, giải quyết tốt các công việc mà Đảng và Nhà nước giao phó và các vấn đề phát sinh từ thực tiến…

Thấm nhuần lời dạy của Bác, trong giai đoạn đổi mới hiện nay, công tác giáo dục, nhất là giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên ở cơ sở, chi bộ, được cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị xã hội, địa phương coi là công việc thường xuyên, gắn với chống suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ… đã có nhiều chuyển biến quan trọng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng.

Học tập và làm theo lời Bác dạy, công tác giáo dục, đào tạo, huấn luyện trong Quân đội được Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp uỷ, chỉ huy các cấp trong toàn quân quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc, khoa học, sáng tạo, đã tích cực đổi mới huấn luyện theo hướng “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu ở các cấp, huấn luyện cơ bản cho các đối tượng, trên tất cả các nội dung, theo trình tự từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, từ phân đoạn đến tổng hợp, từ luyện tập tổng hợp đến diễn tập vòng tổng hợp có bắn chiến đấu; kết hợp huấn luyện lý thuyết với thực hành, lấy huấn luyện thực hành làm chính; kết hợp huấn luyện với rèn luyện, huấn luyện chính khóa với huấn luyện ngoại khóa… đã trực tiếp nâng cao trình độ tổ chức, chỉ huy tác chiến của cán bộ, khả năng làm chủ vũ khí trang bị của bộ đội, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ chiến đấu của đơn vị, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Ngày 10/5/1969

“Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”[10].

Đây là những điều căn dặn hệ trọng, Bác Hồ viết bổ sung lần cuối trong bản “Di chúc” của Người, được đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam công bố tại Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1969.

Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng. Đó không chỉ là lực lượng trực tiếp gánh vác và giải quyết những nhiệm vụ hiện tại, mà còn là đội ngũ kế cận, nguồn bổ sung năng lực để kế thừa và tiếp tục phát triển sự nghiệp của những thế hệ đi trước.

Sự nghiệp cách mạng là một quá trình lâu dài, bao gồm nhiều nhiệm vụ, giai đoạn khác nhau, đòi hỏi sự hy sinh, cống hiến của nhiều thế hệ. Thấm nhuần lời dạy của Người, Đảng ta luôn quan tâm giáo dục, bồi dưỡng các thế hệ cách mạng cho đời sau, nhất là thế hệ trẻ; coi trọng giáo dục, rèn luyện toàn diện về mọi mặt, chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho thế hệ trẻ, tạo điều kiện để thế hệ trẻ nâng cao trình độ, ổn định cuộc sống, nghề nghiệp và tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Lời căn dặn về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau thể hiện sự sâu sắc trong tầm nhìn và tư duy chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người không chỉ nhìn hiện tại mà còn hướng về tương lai; không chỉ dành tâm huyết cho sự nghiệp cách mạng trước mắt, mà còn chăm lo vun trồng cái gốc của sự nghiệp đó để nó trở nên vững bền. Luận điểm đó chứa đựng thế giới quan khoa học, cách mạng và biện chứng của một lãnh tụ cách mạng, phản ánh tầm nhìn xa, trông rộng của một nhà hiền triết, một nhà văn hóa lớn; đã trở thành một chân lý của cách mạng.

Thấm nhuần lời căn dặn của Người, cấp uỷ, tổ chức đảng, chính uỷ, chính trị viên, người chỉ huy các cấp trong toàn quân luôn quan tâm chăm lo xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; có phẩm chất đạo đức và năng lực công tác tốt, tác phong làm việc khoa học; có số lượng và cơ cấu hợp lý, cân đối và đồng bộ; thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ, bảo đảm kế thừa, liên tục vững chắc trong quá trình chuyển tiếp các thế hệ cán bộ… đã trực tiếp góp phần quan trọng vào kết quả lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Ngày 11/5/1969

“Phải có quyết tâm cao để vượt mọi khó khăn làm tròn nhiệm vụ. Quyết tâm phải biến thành hành động dũng cảm, chiến đấu kiên quyết, không sợ hy sinh gian khổ”.[11]

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi lớp chỉnh huấn cán bộ trung, cao cấp của quân đội năm 1969.

Đây là thời kỳ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang huy động cao nhất mọi nguồn lực, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Theo Bác, có quyết tâm cao mới có hành động dũng cảm, có phương pháp tốt mới hoàn thành tốt được nhiệm vụ; quyết tâm một, biện pháp phải 10 mới đi đến thành công. Vì vậy, Người nhắc nhở cán bộ quân đội trước hết phải có quyết tâm cao để vượt mọi khó khăn, phải học tập để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, nâng cao trình độ về mọi mặt, làm cho ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. Đây là nguồn động viên, cổ vũ, khích lệ đội ngũ cán bộ quân đội phải luôn triệt để chấp hành nghiêm chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, lập nhiều thành tích hơn nữa trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, lời dạy của Người về lòng quyết tâm và ý thức trách nhiệm của cán bộ quân đội càng có ý nghĩa và giá trị nhân văn sâu sắc. Học tập và làm theo lời Bác dạy, đội ngũ cán bộ quân đội luôn phát huy tốt tính tiền phong, gương mẫu, chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội; gương mẫu đi đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Cán bộ luôn gần gũi bộ đội, quan tâm xây dựng động cơ, quyết tâm cao cho bộ đội; cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn rèn luyện ý chí chiến đấu, tinh thần chịu đựng gian khổ, dũng cảm, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Ngày 12/5/1952

“Tất cả mọi người đều phải trông thấy ai sai thì phê bình. Phê bình để sửa chữa, để tiến bộ. Không phê bình là tự làm mất quyền dân chủ”[12].

Là lời dạy của Bác Hồ đối với các chiến sĩ thi đua công nông binh trong bối cảnh các ngành, các giới, các lĩnh vực công tác hăng hái thi đua lập nhiều thành tích vì mục tiêu đánh thắng thực dân Pháp xâm lược. Trong đó, chiến sĩ đánh giặc trên chiến trường phải cùng với các ngành thi đua giết giặc, phải quí trọng, gìn giữ từng hạt gạo, hạt muối, từng viên đạn; công nhân phải tiết kiệm nguyên vật liệu, không được hoang phí. Chính phủ và đoàn thể hết sức chống bệnh quan liêu, chống tham ô, lãng phí. Muốn vậy, phải thực hiện tự phê bình và phê bình để sửa chữa khuyết điểm, để đạt được nhiều kết quả hơn nữa trong thi đua và để phát huy quyền dân chủ của mỗi người. 

Phương pháp và tinh thần tự phê bình theo tư tưởng của Bác đã trở thành nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng và trong bồi dưỡng, rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảng ta khẳng định: Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là thước đo trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng và là ý thức trách nhiệm của Đảng với nhân dân; là vấn đề vừa cơ bản, vừa lâu dài; vừa là những yêu cầu trước mắt của công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, của quá trình đổi mới và cải cách bộ máy hành chính, đổi mới cung cách làm việc của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng Đảng ta, Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, thực sự của dân, do dân, vì dân, hướng tới thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các cấp trong toàn quân phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc tự phê bình và phê bình thông qua việc duy trì nền nếp và không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Ủy ban Kiểm tra Đảng các cấp, của các tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân. Tiến hành tự phê bình và phê bình từ trong cấp ủy ra ngoài đảng bộ, đơn vị; mở rộng dân chủ và phát huy quyền, trách nhiệm của các tổ chức quần chúng, của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên tham gia phê bình cho cấp ủy, các đồng chí bí thư, phó bí thư cấp ủy, cán bộ chủ trì, chủ chốt để xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh; cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, phát huy tốt tính tiền phong, gương mẫu của đỗi ngũ cán bộ, đảng viên… hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Ngày 13/5/1955

“Việc gì cũng phải có lãnh đạo thì mới thành công”.[13]

Là lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị đổi công toàn quốc năm 1955. Đây là thời kỳ phong trào tổ đổi công đang phát triển mạnh, rất cần  thiết có sự tổng kết, trao đổi kinh nghiệm giữa các các khu, tỉnh, huyện, xã, các tổ trưởng tổ đổi công trên toàn miền Bắc và một số địa phương ở miền Nam. Bác ghi nhận, đánh giá cao và khẳng định vai trò to lớn của công tác lãnh đạo, chỉ đạo nói chung, lãnh đạo, chỉ đạo phong trào tổ đổi công nói riêng, đồng thời, định hướng phương châm, nguyên tắc, phương pháp tổ chức của các tổ chức đảng, nhất là trong công tác lãnh đạo phong trào xây dựng tổ đổi công – bước đầu tiên đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa.

 Thấm nhuần lời dạy của Người, Đảng ta đã không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định trên thực tiễn và được hiến định vững chắc trong các bản Hiến pháp trước đây và trong Điều 4, Hiến pháp năm 2013 “Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội…”

          Lịch sử hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam luôn gắn liền với sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam – đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là nguyên nhân và cũng là kết quả giúp cho Quân đội ta chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược hung bạo trước đây và đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trong trong xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại giai đoạn hiện nay. Mọi hoạt động quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật… trong quân đội đều được đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, sự chỉ đạo, điều hành của người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các cấp.

          Hiện nay, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta, chống phá quân đội với việc hô hào đòi xóa bỏ Điều 4, Hiến pháp năm 2013, cổ vũ cho việc “phi chính trị hóa quân đội”… đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc củng cố, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi hoạt động của đơn vị, của bộ đội; cán bộ, đảng viên phải luôn gương mẫu trước cấp dưới, trước bộ đội, để bộ đội học tập và noi theo.

Ngày 14/5/1966

“Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”.[14]

Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại lớp huấn luyện đảng viên mới do Thành ủy Hà Nội tổ chức, năm 1966.

Đây là sự đánh giá, khẳng định của Bác về bản chất, nguồn gốc sức mạnh của Đảng, vai trò, mối liên hệ mật thiết giữa đảng viên và chi bộ trong giai đoạn Đảng ta phát động thực hiện cuộc vận động chi bộ “bốn tốt”, đảng bộ “bốn tốt” và đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Quán triệt và thực hiện lời Bác dạy, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của chi bộ, coi chi bộ là tế bào, là cơ sở của Đảng, là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ ở cơ sở; đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đó với tư cách vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân. Do vậy, xây dựng chi bộ tốt, đội ngũ đảng viên tốt là nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu trong công tác xây dựng Đảng; làm cơ sở, nền tảng xây dựng Đảng ta xứng đáng với trọng trách là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.

Thực hiện lời Bác dạy, công tác xây dựng Đảng trong Quân đội luôn được Quân ủy Trung ương, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong toàn quân quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện nghiêm túc. Chất lượng sinh hoạt, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của chi bộ không ngừng được nâng lên. Đội ngũ đảng viên trong quân đội phát triển cả số lượng và chất lượng, luôn nêu cao tính tiền phong gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành các nhiệm vụ được giao; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng, của Quân đội; phát huy tốt tinh thần chủ động, sáng tạo, tự nguyện, tự giác, dám nghĩ, dám làm, gương mẫu trước bộ đội được bộ đội tin yêu, thật sự là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết trong đơn vị.

Ngày 15/5/1962

Quyết lòng gìn giữ giang san

Đồng bào Nam Việt muôn vàn văn minh”.[15]

Những câu thơ trên là phần kết trong bài viết có tiêu đề “Ai dã man? Ai văn minh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo Nhân dân, số 2973, ngày 15 tháng 5 năm 1962. Bài báo đã vạch trần âm mưu, thủ đoạn và dã tâm của đế quốc Mỹ xâm lược bắt tay với bọn ác ôn Ngô Đình Diệm để giết hại, đàn áp nhân dân miền Nam Việt Nam; đồng thời, Bác ca ngợi tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm, nhưng rất khoan hồng, nhân đạo, nhân văn trong đối xử với từ hàng binh địch của quân và dân miền Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác, quân và dân ta quyết tâm chiến đấu giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; đồng thời luôn đối xử nhân đạo với tù hàng binh, giáo dục họ, phóng thích và trả về đoàn tụ cùng gia đình, kể cả binh lính Mỹ, cũng như lính chư hầu các nước … Thắng lợi của công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược tiếp tục khẳng định truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết, anh dũng chống ngoại xâm của dân tộc ta. Đó chính là sức mạnh làm nên những thắng lợi vĩ đại để đánh đuổi giặc ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Thực hiện lời dạy của Bác, cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn rèn luyện ý chí chiến đấu kiên quyết và bền bỉ, thắng không kiêu, bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân, quyết chiến, quyết thắng trước mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia dân tộc. Đối với tù binh, hàng binh và những người lầm đường, lạc bước quay trở lại với nhân dân, với cách mạng thì luôn được cán bộ, chiến sĩ quân đội đối xử với lòng nhân ái, vị tha, khoan hồng theo đúng chính sách của Đảng, Nhà nước… góp phần giảm tổn thất trong các cuộc chiến tranh, làm dịu đi mối hận thù giữa hai dân tộc, hai quốc gia đối địch trong chiến tranh, thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân ái của dân tộc Việt Nam, phẩm chất nhân văn, cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”.

Ngày 16/5/1959

“Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nẩy nở rất dễ”[16].

Câu nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài nói tại lớp chỉnh huấn khóa II của Bộ Công an, ngày 16 tháng 5 năm 1959. Bác chỉ rõ: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù”. Bác căn dặn ngành Công an muốn làm tròn nhiệm vụ, phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống thói so bì đãi ngộ, chỉ lo cho lợi ích của riêng mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể… Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, theo Hồ Chí Minh là gay go, quyết liệt, lâu dài và gian khổ hơn cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù ngoại xâm, bởi nó ẩn sâu trong tư tưởng, suy nghĩ và hành vi của mỗi cá nhân, không dễ gì nhận thấy và cũng không dễ gì đánh đổ. Việc chống chủ nghĩa cá nhân là việc làm cần thiết, thường xuyên của những người cộng sản chân chính, trong đó có những cán bộ ngành Công an.

Lời dạy của Bác có giá trị bền vững, có ý nghĩa sâu sắc đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch bộ máy Nhà nước ta hiện nay. Học tập và làm theo Bác, chống chủ nghĩa cá nhân, các cấp uỷ, tổ chức đảng, trước hết là chi bộ cần coi trọng khâu giáo dục, nâng cao nhận thức, tăng cường quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên, xây dựng động cơ phấn đấu đúng đắn của quần chúng, để họ hiểu vào Đảng không phải là để thăng quan tiến chức mà là để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mỗi người phải tự cảnh giác với chính mình, vượt qua được những tiêu cực, cám dỗ của lợi ích vật chất và những tác động mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế; cảnh giác trước sự chống phá, mua chuộc, dụ dỗ của kẻ thù.

Quân đội nhân dân Việt Nam luôn nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng luôn tự hào về phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, phát huy vai trò tiền phòng, gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác. Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người chính ủy, chính trị viên, chỉ huy cơ quan, đơn vị gương mẫu học tập, rèn luyện chống suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; kiên quyết đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tiêu cực xảy ra; ra sức xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh; cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Ngày 17/5/1946

“Người làm tướng có mưu trí bao giờ cũng lo lắng đến lợi, đến hại. Lo đến lợi mới có đủ tin tưởng làm trọn được nhiệm vụ. Lo đến hại mới tìm mưu kế để giải trừ được gian nguy”[17].

Lời của Bác được trích trong bài “Bàn về phương pháp tác chiến”, được đăng trên Báo Cứu quốc, số 242, ngày 17 tháng 5 năm 1946, với bút danh Q.Th. thuật, thể hiện nhãm quan trong đánh giá tư duy, trí tuệ, tài năng của người làm tướng. Theo Bác, người làm tướng có mưu trí phải là người có mưu lược; trí sáng tạo; có phương pháp phân tích, phán đoán tình hình một cách khoa học, chính xác; hiểu địch, hiểu mình; biết phân tích thiên thời – địa lợi – nhân hoà; biết phát huy sở trường, sở đoản của quân mình, hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của quân địch; biết tạo ra và phát huy sức mạnh tổng hợp để đánh thắng quân thù… Đây là yêu cầu không thể thiếu và là thước đo bản lĩnh, tài năng của một người cầm quân giỏi được Hồ Chí Minh vận dụng chỉ đạo việc giáo dục, rèn luyện năng lực và phẩm chất của người làm tướng, đáp ứng nhiệm vụ từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng.  

Trong giai đoạn hiện nay, khi sự nghiệp đổi mới đất nước đang có những chuyển biến mạnh mẽ và đạt nhiều thành tựu to lớn, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức, nhất là sự chống phá của các thế lực thù địch… yêu cầu xây dựng quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” đòi hỏi năng lực của người tướng lĩnh quân đội theo quan điểm của Hồ Chí Minh có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đó phải thực sự là người có tri thức toàn diện, giỏi về quân sự, sâu sắc, nhạy bén về chính trị, hiểu biết sâu rộng về văn hóa, khoa học, kỹ thuật… Trong lãnh đạo, chỉ huy đơn vị người cán bộ cấp tướng phải luôn chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tốt tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đề cao và thực hành tốt tự phê bình và phê bình; làm việc theo chức trách, nêu gương trong hành động; luôn tự soi, tự sửa; dự báo và xem xét thấu đáo các điều kiện khách quan, chủ quan khi ra các quyết định; sâu sát, tỉ mỉ, cụ thể trong tổ chức thực hiện; gần gũi với cấp dưới, với bộ đội, là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết, chỉ huy đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

 Ngày 18/5/1963

“Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng xuất lao động và không ngừng cải tiến đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”[18].

Câu nói trên của Hồ Chí Minh trích trong “Bài nói tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Hội nghị phổ biến khoa học, kỹ thuật Việt Nam” ngày 18 tháng 5 năm 1963, bàn về mối quan hệ giữa khoa học và sản xuất.

Đây chính là phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức nghiên cứu khoa học; khoa học phải gắn với nhiệm vụ, với đời sống xã hội; khoa học phải gắn với thực tiễn, phải từ thực tiến và quay lại phục vụ chính thực tiễn và phải đáp ứng nhu cầu của sản xuất, phục vụ sản xuất, nhằm nâng cao năng suất lao động và nâng cao đời sống vật chất của nhân dân. Năng suất lao động cao thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo điều kiện xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Do vậy, trong các thời kỳ thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, Người chú trọng đề ra các chủ trương, chính sách xây dựng, phát triển khoa học và kỹ thuật.

Hiện nay, đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng dưới sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế tri thức dần dần giữ vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu các thành phần kinh tế; quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của khoa học và kỹ thuật trong xây dựng chủ nghĩa xã hội càng có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc đã được Đảng ta cụ thể hóa thành các nghị quyết, đề án, chương trình; trong đó, xác định cùng với giáo dục đào tạo, thì khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.

Thấm nhuần quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của khoa học đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, có nhiều giải pháp trong nghiên cứu khoa học – kỹ thuật, khoa học quân sự. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học trong quân đội ngày càng được phát triển cả về số lượng và chất lượng, được đào tạo cơ bản ở trong nước và nước ngào, tâm huyết, yêu nghề. Các phong trào: “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật”, “Tuổi trẻ Quân đội tiến quân vào khoa học công nghệ”… được đông đảo cán bộ, chiến sĩ toàn quân hưởng ứng thực hiện, ngày càng xuất hiện nhiều công trình, đề tài khoa học, sáng kiến có giá trị cao, được ứng dụng có hiệu quả trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và đóng góp góp vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, được dư luận ghi nhận, đánh giá cao, thiết thực góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng quân đội từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Ngày 19/5/1949

 “Vì nước chưa nên nghĩ đến nhà,

Năm mươi chín tuổi vẫn chưa già.

Chờ cho kháng chiến thành công đã,

Bạn sẽ ăn mừng sinh nhật ta[19].

          Nhân dịp chuẩn bị sinh nhật lần thứ 59 của Bác, ngày 19 tháng 5 năm 1949 nhiều ý kiến đề nghị tổ chức Lễ mừng thọ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bác tỏ ý không bằng lòng và Người đã tự làm thơ mừng thọ mình, cũng là câu trả lời các ý kiến về việc ý định tổ chức mừng thọ cho Bác. Bài thơ là hiện thân của sự giản dị, khiêm tốn rất mực ở Người, toát lên một tinh thần lạc quan cách mạng, có niềm tin sâu sắc vào thắng lợi của cách mạng, coi đó là điều kiện tiên quyết trong các tiệc mừng, cho ngày sinh nhật… Với Bác, kháng chiến chưa thành công, đồng bào còn nghèo khổ, thì không thể vui cho riêng mình và Bác cũng mong mọi cán bộ, đảng viên như vậy.

Hiện nay, đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đời sống vật chất, tinh thần của xã hội được nâng cao; nhưng triết lý sống phải luôn đặt lợi ích của Đảng, của đất nước lên trên, lên trước, phải biết lo cho nhân dân, cho địa phương, đơn vị trước khi lo cho cá nhân, phải sống mình vì mọi người luôn khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm… của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với mọi người, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, thiết thực góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xứng đáng với niềm tin yêu và trọng trách mà nhân dân giao phó.

Học tập và làm theo phong cách sống thanh cao, trong sạch, giản dị và tinh thần “dĩ công vi thượng” của Bác, cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, gương mẫu, đi đầu trong chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội; đề cao tự phê bình và phê bình; đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân; kiên quyết đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, bệnh thờ ơ, vô cảm, sùng bái cá nhân; ra sức xây dựng cơ quan, đơn vị chính qui, xanh, sạch, đẹp, có môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh; xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh; cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện; các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc.

Ngày 20/5/1969

“Phải giáo dục bộ đội giữ gìn tốt vũ khí trang bị, tiết kiệm từng viên đạn, từng hạt gạo, không được để lãng phí”[20].

Là lời căn dặn của Bác Hồ trong thư gửi lớp chỉnh huấn cán bộ trung, cao cấp cơ quan Bộ Quốc phòng, các quân khu, quân chủng, binh chủng, sư đoàn do Tổng cục Chính trị tổ chức họp tháng 5 năm 1969.

Trong điều kiện đất nước đang có chiến tranh, còn nhiều khó khăn, gian khổ, song toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vẫn huy động cao nhất mọi nguồn nhân, vật lực cho bộ đội trên chiến trường với quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Mỗi khẩu súng, viên đạn, hạt gạo, viên thuốc… là công sức của đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế ủng hộ, để bộ đội có điều kiện chiến đấu, chiến thắng quân địch trên chiến trường. Do vậy, Bác căn dặn đội ngũ cán bộ quân đội phải làm tốt công tác giáo dục và thực hành tiết kiệm sâu rộng trong toàn quân để tạo nên động lực, sức mạnh, chiến đấu, chiến thắng kẻ thù, giải phóng đất nước.

Lời Bác dạy đã trở thành phương châm hành động, ý thức tự giác trong các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội. Các phong trào thi đua được phát động ngay trên chiến trường đỏ lửa “yêu xe như con, quý xăng như máu”, “mỗi viên đạn là một quân thù”… đã được bộ đội tích cực hưởng ứng thực hiện, tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Trong giai đoạn hiện nay, lời dạy của Bác vẫn còn nguyên giá trị, được cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân quán triệt và triển khai thực hiện thông qua việc tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, xây dựng ý thức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cho mọi cán bộ, chiến sĩ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, cán bộ trực tiếp chỉ đạo, thực hiện công tác bảo đảm hậu cần – kỹ thuật… tạo sự chuyển biến tích cực trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cả về vũ khí trang bị, cơ sở vật chất, điện, nước, văn phòng phẩm, sức lao động, thời gian, tiền bạc… của đơn vị và cá nhân. Đặc biệt, toàn quân đang đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông, “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật” và phong trào thi đua Quyết thắng bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, góp phần xây dựng ý thức thực hành tiết kiệm sâu rộng trong mọi cán bộ, chiến sĩ toàn quân.  

Ngày 21/5/1964

“Nhân dân miền Nam anh dũng quyết không lùi bước trước mũi súng của kẻ xâm lược và lũ bán nước. Đồng bào chúng tôi thà hy sinh hết thảy, nhưng quyết không chịu làm nô lệ”[21].

Là lời trong bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên tạp chí Mainôrity Ốp Oăn (Minority of one) – tạp chí do một nhóm nhân sĩ trí thức tiến bộ Mỹ xuất bản, ra ngày 21 tháng 5 năm 1964 nhân kỷ niệm ngày sinh của Người, thể hiện rõ quyết tâm sắt đá, chiến đấu anh dũng, kiên cường, sẵn sàng hiến dâng máu xương của nhân dân miền Nam nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung, quyết đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến thắng lịch sử trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã chứng minh lời khẳng định của Hồ Chí Minh trước đồng bào trong nước và nhân dân trên thế giới..

Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ tiếp tục có diễn biến phức tạp, khó lường. Tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng… tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều nơi; sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá – hiện đại hóa đất nước đặt ra những yêu cầu mới. Quán triệt và thực hiện tư tưởng của Bác về ý chí, quyết tâm bảo vệ toàn vẹn chủ quyền quốc gia, Đại hội XII của Đảng đã xác định rõ chủ trương “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”; thực hiện tốt các đối sách mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo, để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm phạm chủ quyền, biển, đảo, lợi ích quốc gia, các hoạt động chống phá chế độ…

Học tập và làm theo lời dạy của Người, cán bộ, chiến sĩ Quân đội phải không ngừng phấn đấu, rèn luyện, có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, có niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của quân đội. Đề cao cảnh giác cách mạng, nhận rõ đối tác, đối tượng; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; mài sắc ý chí chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Ngày 22/5/1950

“Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích.

Hành mà không học thì hành không trôi chảy”[22].

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến việc huấn luyện học tập, tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập vào tháng 5 năm 1950, Người đến dự và nói về mối quan hệ giữa học và hành. Theo Người, học phải luôn gắn bó hữu cơ, không tách rời với hành, học để ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống vốn đa dạng và phong phú. Học mà không hành, không áp dụng vào thực tế khác nào chiếc hòm đựng đầy sách, hành mà không học thì hành không trôi chảy. Muốn thực hành tốt đòi hỏi người học phải được trang bị những tri thức, kiến thức. Quan điểm của Người đã trở thành bài học sâu sắc có tác dụng kêu gọi mọi người đem việc học gắn bó với thực tiễn nước nhà, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Học đi đôi với hành cũng là nguyên lý giáo dục cơ bản của Đảng và Nhà nước ta; phê phán lối học suông, học cốt lấy chữ nghĩa, lấy mảnh bằng, lối học kinh viện, không nhằm mục đích phục vụ thực tiễn.

Thấm nhuần nguyên lý: “Học đi đôi với hành” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta chủ trương nâng cao chất lượng dạy và học trong các hệ thống bậc học, cấp học, chung tay xây dựng một xã hội học tập, xem học tập như là một nhu cầu tất yếu của cuộc sống và có thể học ở mọi nơi, mọi lúc, học bằng nhiều cách. Học không chỉ là học văn hóa mà còn phải học các kiến thức khác để làm việc, để sáng tạo, để làm người, để sống tốt hơn, thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Nếu không, người học chỉ cần đạt đến mục tiêu có bằng cấp, không còn động lực học tập để có tri thức, để làm việc, để ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống. Một nền giáo dục mà “cả nước là một xã hội học tập” sẽ là động lực thúc đẩy mọi người có trách nhiệm học tập, học tập để không bị lạc hậu và theo kịp bước tiến của khoa học, công nghệ, thời đại, để có điều kiện phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân và phát triển bản thân.

Thực hiện Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác huấn luyện, giáo dục đào tạo trong quân đội luôn được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo với việc ban hành đồng bộ, hệ thống các nghị quyết chuyên đề, chỉ thị, mệnh lệnh huấn luyện hằng năm để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức tốt công tác huấn luyện, giáo dục đào tạo. Tư tưởng chỉ đạo học đi đôi với hành đã được cụ thể hóa trong 3 quan điểm, 8 nguyên tắc, 6 mối kết hợp trong huấn luyện, đã trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trong toàn quân những năm qua đáp ứng kịp thời phương hướng xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

          Ngày 23/5/1958

“Đã hứa thì phải làm, làm thì nhất định phải được”[23].

Sáng ngày 23 tháng 5 năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới dự và nói chuyện với Đại hội chiến sĩ thi đua nông nghiệp toàn quốc lần thứ III. Phần cuối bài nói chuyện, Người khẳng định: “Đã hứa thì phải làm, làm thì nhất định phải được” nhằm khẳng định quyết tâm, tinh thần trách nhiệm, nói đi đôi với làm của hàng vạn chiến sĩ thi đua nông nghiệp và 12 triệu nông dân miền Bắc trong việc thi đua không ngừng tăng gia sản xuất, đẩy mạnh nông nghiệp nước nhà phát triển, để “theo kịp anh em Trung Quốc, tiến kịp anh em Liên Xô”. Câu nói trên đã trở thành nguồn động lực tinh thần khích lệ nhân dân miền Bắc vượt qua khó khăn đưa nền nông nghiệp ngày càng phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân, và viện trợ cho miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

Lời dạy của Bác về tinh thần thần trách nhiệm, nói đi đôi với làm có ý nghĩa lớn đối với mọi người, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bởi lời nói đi đôi với việc làm, nói được làm được, làm tốt, sẽ mang lại những hiệu quả lớn, được quần chúng hưởng ứng và làm theo. Ngược lại, nói nhiều làm ít hoặc hứa mà không làm, làm cho xong sẽ chỉ mang lại những kết quả phản tác dụng.

Học tập và làm theo lời Bác dạy:  “Đã hứa thì phải làm, làm thì nhất định phải được”, đã được Quân đội ta cụ thể hóa trong 10 lời thề danh dự của người quân nhân cách mạng; 12 điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân và trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội, chức trách nhiệm vụ của từng cán bộ, chiến sĩ… Đặc biệt, đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn phát huy tốt tính tiền phong gương mẫu, nêu gương trước bộ đội, là lực lượng nòng cốt, hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết ở đơn vị, góp phần quan trọng vào kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn đoàn kết, gắn bó, nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

 

Ngày 24/5/1957

“Quan sơn muôn dặm một nhà,

Vì trong bốn biển đều là anh em”[24]

Đó là những câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong diễn văn tiễn Chủ tịch K.E.Vôrôsilốp và Đoàn đại biểu Chính phủ Liên Xô lên đường về nước, kết thúc tốt đẹp chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam. Câu thơ trên khẳng định tình đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Để xây dựng, củng cố sự nghiệp đoàn kết cao cả ấy, Hồ Chí Minh cho rằng, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên quyết đấu tranh chống những khuynh hướng tư tưởng sai lầm, lệch lạc, như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại… Trong thực tiễn hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi góp phần vào việc củng cố sự đoàn kết quốc tế cao đẹp ấy.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế vẫn còn nguyên giá trị. Đó là cơ sở lý luận để Đảng ta xác định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; có chính sách đối ngoại rộng mở; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với tinh thần Việt Nam  là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình.

Để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; cấp ủy, chỉ huy các cấp và cán bộ, chiến sĩ toàn quân càn phải luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả, đường lối đối ngoại rộng mở; coi hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng là một định hướng chiến lược, việc làm thường xuyên, quan trọng. Chú trọng thúc đẩy quan hệ về quốc phòng với các nước láng giềng, các nước có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, các nước trong khu vực… tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc, trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi, vì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại quốc phòng có đủ bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mới.

Ngày 25/5/1947

“Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà, mà anh em văn hóa và trí thức phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”[25].

Lời dạy đó của Bác được trích trong bức thư Người viết “Gửi anh em văn hóa và trí thức Nam Bộ” vào ngày 25 tháng 5 năm 1947, khẳng định mặt trận văn hóa như một “cuộc chiến khổng lồ” giữa chính và tà, giữa cách mạng và phản cách mạng. Trong cuộc chiến đó, người “nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí” đấu tranh; đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Để làm tròn nhiệm vụ, đội ngũ nghệ sĩ, trí thức phải bám sát cuộc sống thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, phê bình nghiêm khắc những thói xấu như tham ô, lười biếng, lãng phí, quan liêu, ca tụng chân thật những tấm gương người tốt việc tốt cho mọi người học tập và giáo dục con cháu đời sau. Đội ngũ trí thức với trình độ học vấn, chuyên môn cao của mình phải quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề chính trị – xã hội nóng bỏng của thời cuộc thông qua các bài viết, bài nói để dẫn dắt, định hướng quần chúng nhân dân. Học tập và làm theo lời dạy của Người, nhiều nhà văn, nhạc sỹ, nghệ sĩ, trí thức, học giả, nhà nghiên cứu… đã hăng hái tham gia vào sự nghiệp cách mạng, dùng tri thức, sự hiểu biết và tài năng của mình cống hiến cho cách mạng, phục vụ nhân dân một cách tận tụy, hết mình thông qua các công trình, tác phẩm, bài viết.

Thực hiện Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đã xây dựng nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ văn hóa nghệ thuật, cán bộ nghiên cứu khoa học có chất lượng tốt, số lượng phù hợp, cơ cấu hợp lý. Trong đó chú trọng quy hoạch, bồi dưỡng đội ngũ can bộ lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ nghiên cứu, sáng tác các Viện, trung tâm nghiên cứu, các đoàn nghệ thuật, đoàn văn công, các học viện, nhà trường là những cán bộ vừa có trình độ chuyên môn giỏi, kinh nghiệm và năng lực sáng tạo, vừa có phẩm chất chính trị đạo đức tốt, luôn tâm huyết, yêu nghề, gắn bó với Quân đội và đơn vị. Đổi mới chính sách nhằm thu hút, giữ gìn và phát triển mạnh mẽ nguồn nhân lực chất lượng cao về lĩnh vực khoa học công nghệ, về văn hóa nghệ thuật trong Quân đội. Chủ động tìm tòi, đổi mới, xây dựng các cơ chế, chính sách để thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao về lĩnh vực khoa học công nghệ, về nghệ thuật, tạo điều kiện thuận lợi để họ sáng tạo, nghiên cứu, cống hiến. Thường xuyên làm tốt công tác biểu dương, khen thưởng, tôn vinh các tập thể, cá nhân có các công trình, đề tài, tác phẩm, sáng kiến đạt chất lượng tốt để cổ vũ, động viên, khích lệ phát triển thành phong trào sâu rộng trong toàn quân, góp phần hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Ngày 26/5/1946

“Trung với nước, hiếu với dân là một bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta”[26].

Ngày 26 tháng 5 năm 1946, đến dự lễ khai giảng khoá 8, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sỹ quan Lục quân 1/ Bộ Quốc phòng), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao tặng nhà trường lá cờ thêu sáu chữ vàng: “Trung với nước, hiếu với dân”, đồng thời căn dặn cán bộ, học viên: “Trung với nước, hiếu với dân là bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sỹ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta”. Người muốn truyền tinh thần cao cả đó cho nhà trường và trao trách nhiệm nặng nề, chỉ rõ vinh dự cao quý cho cán bộ, giáo viên và học viên là phải suốt đời vì dân mà học tập, chiến đấu và công tác. Thực hiện lời Bác dạy, cán bộ, giáo viên, học viên, nhân viên, chiến sĩ nhà trường đã hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học… cung cấp kịp thời cho các chiến trường khi đất nước còn chiến tranh và các đơn vị trong toàn quân hàng trăm nghìn cán bộ có chất lượng, góp phần vào những thắng lợi vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay, xứng đáng với danh hiệu cao quý đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. “Trung với nước, hiếu với dân” trở thành niềm tự hào, nguồn gốc sức mạnh, động lực tinh thần tạo nên mọi chiến thắng, xây dựng nên bản chất, truyền thống “quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng nặng nề và phức tạp hơn. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, mọi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, cán bộ, giáo viên, học viên trong nhà trường quân đội phải luôn giữ vững và phát huy bản chất truyền thống “trung với nước, hiếu với dân”; luôn xứng đáng là đội quân cách mạng, lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng vũ trang sắc bén có sức chiến đấu cao, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; thực sự là đội quân cách mạng của dân, do dân, vì dân, xứng đáng với phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” và niềm tin về đội quân mãi “trung với nước, hiếu với dân” mà Bác Hồ gửi trọn niềm tin tưởng.

Ngày 27/5/1947

“Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc”[27].

Nhân dịp Hội nghị dân quân, tự vệ và du kích toàn quốc diễn ra tại Việt Bắc, ngày 27 tháng 5 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư “Gửi nam nữ dân quân, tự vệ và du kích toàn quốc”. Trong thư Người khen ngợi và đánh giá cao vai trò của lực lượng dân quân, tự vệ, du kích. Người viết: “Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân quân tự vệ và du kích là một lực lượng chiến lược trong chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ địa phương.

Để xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Đảng, Nhà nước đã ban hành đồng bộ các nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt là Luật dân quân tự vệ để thống nhất trong công tác quản lý, chỉ huy, điều hành. Hiện nay, lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng theo phương châm “vững mạnh, rộng khắp”, chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở khu vực biên giới, biển đảo, các địa bàn chiến lược, trọng điểm về quốc phòng, an ninh với số lượng hợp lý, chất lượng tổng hợp ngày càng cao, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở; tổ chức biên chế tinh gọn, chặt chẽ; trang bị vũ khí phù hợp; được giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự toàn diện, thiết thực; khả năng sẵn sàng chiến đấu ngày càng cao, đáp ứng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, tham gia phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn, xứng đáng là công cụ sắc bén và tin cậy bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân ở cơ sở, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng ở cơ sở, xứng đáng với lời khen ngợi của Bác Hồ kính yêu.

Ngày 28/5/1951

“Còn chủ nghĩa đế quốc, còn thực dân, thì còn nguy cơ chiến tranh”[28].

Câu nói đó trích trong bài trả lời các nhà báo của Hồ Chủ tịch, đăng trên báo Cứu Quốc, số 1827, ra ngày 28 tháng 5 năm 1951. Người chỉ rõ: Trong thời đại ngày nay còn chủ nghĩa đế quốc, thực dân thì còn nguy cơ xảy ra chiến tranh, chiến tranh bắt nguồn từ chính bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, chiến tranh là bạn đường của chủ nghĩa đế quốc. Chiến tranh không phải bắt nguồn từ bản năng sinh vật của con người, không phải là định mệnh và cũng không phải là hiện tượng xã hội tồn tại vĩnh viễn, mà chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, có đối kháng giai cấp và có áp bức bóc lột. Câu nói này là lời cảnh giác cho đồng bào, cán bộ và chiến sĩ trước những chiêu trò, thủ đoạn lừa bịp mà đế quốc Mỹ thực hiện trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam; để toàn dân, toàn quân nâng cao cảnh giác cách mạng, đoàn kết, nhất trí anh dũng, kiên cường đấu tranh xóa bỏ sự áp bức, bóc lột của đế quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và giàu mạnh, văn minh.

Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa tư bản nói chung, chủ nghĩa đế quốc nói riêng luôn tìm cách thích nghi trước sự biến đổi nhanh chóng, phức tạp của các mối quan hệ kinh tế, chính trị quốc tế, nhưng bản chất của chúng vẫn không thay đổi. Đường lối chính trị của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn luôn chứa đựng nguy cơ chiến tranh. Câu nói của Người vẫn là tiếng chuông cảnh báo, để thức tỉnh những ai vẫn đang mơ hồ trước những chiêu trò lừa mị của các thế lực thù địch. Trong quá trình đất nước mở cửa, hội nhập quốc tế, chúng ta phải đề cao cảnh giác, nhận rõ đối tượng, đối tác, chủ động đấu tranh phòng, chống và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quyết tâm giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Là công cụ bạo lực sắc bén bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn thấm nhuần lời dạy của Người về bản chất của chủ nghĩa đế quốc, nguy cơ của chiến tranh, không ngừng vươn lên, nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ và khả năng chiến đấu, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; quyết tâm làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Ngày 29/5/1944

“Du kích như cá, dân chúng như nước. Cá không có nước thì cá chết, du kích không có dân chúng thì du kích chết”[29].

Là lời của Bác trong bài viết “Cách đánh du kích” Người viết tháng 5 năm 1944, gồm 13 chương. Đây là tài liệu quan trọng thể hiện sự sáng tạo của Bác trong sử dụng từ ngữ quân sự và vận dụng tài tình nghệ thuật đánh giặc của cha ông trong quá trình dựng nước và giữ nước để huấn luyện cho du kích ta đánh giặc. Trong đó, Bác đã viết về mối quan hệ cá – nước giữa du kích và nhân dân rất mộc mạc, nhưng dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Mối quan hệ giữa du kích với nhân dân là mối quan hệ tự thân, bởi du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc. Chiến tranh du kích là một phương thức để phát động toàn dân, mà chủ yếu là nông dân tham gia kháng chiến, nó được sinh sôi, nẩy nở giữa vùng địch chiếm đóng, tạo điều kiện thuận lợi để cho mọi người dân tham gia đánh giặc giải phóng quê hương, đất nước. Với lực lượng tại chỗ, vũ khí tại chỗ, thông thuộc địa hình, địa thế, thời tiết, khéo lợi dụng đêm tối, mưa nắng… với những lối đánh giặc chưa từng có trong từ điển quân sự, thoắt ẩn, thoắt hiện, xuất quỷ, nhập thần… làm cho địch khiếp đảm, kinh hoàng đã góp phần làm nên thắng lợi trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Từ mối quan hệ giữa du kích và nhân dân, được Bác nhân lên trong quan hệ giữa bộ đội với nhân dân, Người khẳng định: “Không có dân thì không có bộ đội”. Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân, do dân và vì dân. Cội nguồn sức mạnh, sự trưởng thành và chiến thắng của “Bộ đội Cụ Hồ” cũng đều bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, nhất là thông qua công tác giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân, toàn quân đã xuất hiện ngày càng nhiều mô hình dân vận khéo; tiêu biểu: “Tết Biên phòng ấm lòng dân bản”, “Tết quân dân”, “Nâng bước em tới trường”, “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”… đã và đang góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Ngày 30/5/1949

“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

Thiếu một mùa, thì không thành trời.

Thiếu một phương, thì không thành đất.

Thiếu một đức, thì không thành người”[30].

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết: “Thế nào là Cần”, ký bút danh Lê Quyết Thắng, đăng trên báo Cứu quốc, số 1255, ra ngày 30 tháng 5 năm 1949. Bác đã đúc kết đức: cần, kiệm, liêm, chính là những phẩm chất cần phải có của mỗi con người, giống như quy luật tất yếu của tự nhiên. Mỗi người, nhất là những người có vị trí ảnh hưởng đối với xã hội, đối với cộng đồng phải luôn phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện và thực hành theo 4 đức: cần, kiệm, liêm, chính; thiếu một đức tính cũng không thành người. Những lời dạy của Hồ Chí Minh về vai trò của cần, kiệm, liêm, chính đối với sự phát triển toàn diện con người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đây là những cơ sở khoa học, cách mạng để Đảng ta vận dụng trong chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có đức, vừa có tài, vượt qua mọi cám dỗ, khó khăn, để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân.

Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra ngày càng nặng nề, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội phải luôn thấm nhuần lời dạy của Bác về vai trò của các đức cần, kiệm, liêm, chính đối với sự hình thành phẩm chất, nhân cách của mỗi người; kiên định, vững vàng về lập trường, quan điểm; tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; quan tâm xây dựng đơn vị, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của bộ đội; luôn nêu gương, đi đầu trong sinh hoạt, học tập, công tác, cổ vũ bộ đội phấn đấu học tập, noi theo, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Ngày 31/5/1956

“Tiền đồ của mỗi người nằm trong tiền đồ của cách mạng, của dân tộc”[31].

Câu nói trên trích trong bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đại hội chiến sĩ thi đua ngành thương nghiệp lần thứ nhất được tổ chức từ ngày 31 tháng 5 đến ngày 05 tháng 6 năm 1956, tại Hà Nội. Tham dự Đại hội có 354 đại biểu là chiến sĩ thi đua và đại diện cho các đơn vị tiên tiến thuộc ngành thương nghiệp cả nước.

Lời của Bác, khẳng định lợi ích của dân tộc phải được đặt lên trước lợi ích của cá nhân. Thực tiễn đã chứng minh, nước độc lập thì ai cũng được tự do; nếu mất nước thì ai cũng làm nô lệ. Cách mạng giải phóng dân tộc giành được thắng lợi, không chỉ dân tộc được giải phóng mà các giai cấp, tầng lớp trong xã hội cũng được giải phóng. Quan điểm đó đã góp phần khơi dậy, phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân và cả cộng đồng đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Quan điểm trên của Người, tiếp tục được Đảng ta vận dụng vào đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam; toàn bộ hoạt động của Đảng đều xuất phát và phục vụ lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên sa sút về phẩm chất đạo đức, phai nhạt lý tưởng cách mạng, quá coi trọng đến lợi ích cá nhân, đã và đang làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ, thì việc nắm vững những quan điểm của Người về đặt lợi ích chung của dân tộc, của Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân có giá trị thực tiễn sâu sắc; là nội dung, phương hướng rèn luyện đạo đức của mỗi người theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh.

Quân đội ta là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”, cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân luôn thấm nhuần lời dạy của Bác về việc phải biết đặt lợi ích của đất nước lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân, kiên định với mục tiêu, con đường cách mạng mà Đảng và Bác đã lựa chọn; quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nêu cao ý chí, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; luôn chủ động tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến  bình” của các thế lực thù địch; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.


[1] . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr. 402-410.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, tập 12, tr 199.

[3] Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr 516

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 10, tr 588

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr 518

[6] . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 6, tr 361

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 11, tr 400.

[8]  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 8, tr 466.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 8, tr 467

[10] . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr 622

[11] . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr 576-577.

[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr 553

[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 9, tr 467

[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr  113.

[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr 397.

[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 12, tr. 222.

 

[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 4, tr. 264.

 

[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, t.14, tr.97.

[19] Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. CTQG, H. 2016, t.6, tr. 72

[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, t. 15, tr. 577.

[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, t. 14, tr. 330.

[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 6, tr. 361.

[23] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 11, tr. 417.

[24] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 10, tr. 558.

[25] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 5, tr. 157.

[26] CTĐ,CTCT Trường SQLQ1 (1945-2000), Nxb. QĐND, H. 2000, tr. 21.

[27] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 5, tr. 158

[28] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 12, tr. 729.

[29] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 3, tr. 500.

[30] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 6, tr. 117.

[31] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 10, tr. 334.

Đối tác